Cho đến nay, đã có không ít người nghiên cứu, tiếp cận vấn đề nhân quyền bằng cách nhấn mạnh quá mức đến tính phổ quát của thế giới, mà chưa thật coi trọng đến đặc điểm văn hóa riêng của từng dân tộc; trong khi số khác lại nhấn mạnh quá mức tính đặc thù của từng dân tộc và coi nhẹ tính phổ quát của nhân loại. Những cách tiếp cận trên đều có điểm phù hợp và chưa phù hợp, nhưng tựu trung đều phiến diện. Cách tiếp cận đúng đắn nhất để hiểu và thực hành vấn đề bảo đảm nhân quyền là kết hợp chặt chẽ tính phổ quát của nhân loại với đặc thù văn hóa của mỗi dân tộc. Cái chung - riêng này phải đúc thành một khối toàn vẹn. Có như vậy, mới bảo đảm và phát huy nhân quyền một cách đúng đắn, hiệu quả nhất. Hồ Chí Minh đã đi theo cách tiếp cận này và được biểu hiện rõ ràng trong bản Di chúc.
Điều cốt yếu của tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề nhân quyền phản ánh trong bản Di chúc nằm ở mối quan hệ biện chứng của học thuyết “ba giải phóng” của Người: Giải phóng dân tộc, giải phóng xã hội và giải phóng con người. Trong đó, giải phóng dân tộc Việt Nam theo con đường của cách mạng vô sản là tiền đề cho hai cuộc giải phóng sau. Giải phóng xã hội, đến lượt nó làm tiền đề cho giải phóng con người; đồng thời, củng cố vững chắc cho thắng lợi của giải phóng dân tộc. Giải phóng con người là cuộc giải phóng triệt để nhất và là kết quả tất yếu từ sự thắng lợi của hai cuộc giải phóng trước đó; cái đích cuối cùng trong tư tưởng “ba giải phóng” của Hồ Chí Minh: chỉ có giải phóng được dân tộc thì mới giải phóng được giai cấp. Trong bản Tuyên ngôn Độc lập (ngày 02-9-1945), Người đã đặt vấn đề nhân quyền trên cái nền của một đất nước đã giành được độc lập. Trên cơ sở tiếp thu ý tưởng nhân quyền mà Tuyên ngôn Độc lập của Mỹ (năm 1776), Tuyên ngôn Nhân quyền và Dân quyền của Cách mạng Pháp (năm 1791) nêu, Người đã vận dụng vào giải quyết vấn đề nhân quyền của Việt Nam: nước đã mất độc lập thì con người không có tự do. Ở tầm tư duy thời đại, khi đất nước vừa mới giành được độc lập, Hồ Chí Minh nhấn mạnh: “… nếu nước độc lập mà dân không hưởng hạnh phúc tự do, thì độc lập cũng chẳng có nghĩa lý gì”(1) và “Chúng ta tranh được tự do, độc lập rồi mà dân cứ chết đói, chết rét, thì tự do, độc lập cũng không làm gì. Dân chỉ biết rõ giá trị của tự do, độc lập khi mà dân được ăn no, mặc đủ”(2). Đây là chân lý của thời đại. Cả cuộc đời của Người hy sinh phấn đấu cho chân lý đó. Trong Điếu văn truy điệu Người (năm 1969) của Ban Chấp hành Trung ương Đảng đã khẳng định: “… từ buổi thiếu niên cho đến phút cuối cùng, Hồ Chủ tịch đã cống hiến trọn đời mình cho sự nghiệp cách mạng của nhân dân ta và nhân dân thế giới. Người đã trải qua một cuộc đời oanh liệt, đầy gian khổ hy sinh, vô cùng cao thượng và phong phú, vô cùng trong sáng và đẹp đẽ,… Dân tộc ta, nhân dân ta, non sông đất nước ta đã sinh ra Hồ Chủ tịch, người anh hùng dân tộc vĩ đại, và chính Người đã làm rạng rỡ dân tộc ta, nhân dân ta và non sông đất nước ta”(3). Chính vì vậy, Di chúc của Hồ Chí Minh mang tính nhân văn sâu sắc, thể hiện những quan điểm đặc sắc về nhân quyền.
Ngoài “điều mong muốn cuối cùng” là: “Toàn Đảng, toàn dân ta đoàn kết phấn đấu, xây dựng một nước Việt Nam hòa bình, thống nhất, độc lập, dân chủ và giàu mạnh, và góp phần xứng đáng vào sự nghiệp cách mạng thế giới”(4), Hồ Chí Minh còn chỉ ra bảy vấn đề lớn mà toàn Đảng, toàn quân và toàn dân Việt Nam phải giải quyết, nhằm thực hiện thắng lợi sự nghiệp giải phóng con người, cũng là bảo đảm và phát huy nhân quyền trong chế độ chính trị xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam. Trong đó, vấn đề nhân quyền được Người đề cập trực tiếp: “Đầu tiên là công việc đối với con người”(5) sau khi kết thúc thắng lợi cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước. Trong Di chúc (bản tự đánh máy năm 1965), Người viết: “Nhân dân lao động ta ở miền xuôi cũng như ở miền núi, đã bao đời chịu đựng gian khổ bị chế độ phong kiến và thực dân áp bức bóc lột, lại kinh qua nhiều năm chiến tranh. Tuy vậy, nhân dân ta rất anh hùng, dũng cảm, hăng hái, cần cù. Từ ngày có Đảng, nhân dân ta luôn luôn đi theo Đảng, rất trung thành với Đảng”(6). Vì vậy, Người yêu cầu Đảng, Nhà nước ta phải luôn chú ý, chăm lo nâng cao đời sống cho nhân dân. Hồ Chí Minh không phải là người đầu tiên phát hiện ra sức mạnh vĩ đại của nhân dân, nhưng là người nâng vấn đề ấy lên ở tầm nhận thức mới. Theo quan điểm của Người, nhân dân đứng ở vị trí tối thượng trong cấu tạo hệ thống quyền lực của đất nước; mọi quyền hạn đều của dân; chính quyền từ cơ sở đến Trung ương đều do dân cử ra. Điều này hoàn toàn phù hợp với cấu trúc xã hội hiện đại. Mọi hoạt động của hệ thống chính trị đều phải nhằm vào lợi ích của dân. Đây là quan điểm nhất quán của Hồ Chí Minh. Trong những năm làm Chủ tịch Đảng, Chủ tịch Nước, Hồ Chí Minh luôn ý thức được chức Chủ tịch của mình do đâu mà có và sử dụng quyền lực đó cho ích quốc, lợi dân. Người thường hay nói về vị trí, quan hệ của cán bộ, đảng viên đối với dân, đặt cán bộ vào vị trí vừa là người lãnh đạo vừa là người đày tớ thật trung thành của nhân dân, thậm chí còn coi Đảng, Chính phủ, cán bộ, đảng viên là “trâu ngựa”(7) của dân.
Đặc biệt, trong Di chúc, Hồ Chí Minh đề cập đến một khối cư dân đông đảo của một đất nước nông nghiệp, một đội quân cùng với giai cấp công nhân và đội ngũ trí thức làm nên cốt lõi và chủ lực của khối đại đoàn kết toàn dân tộc, đó là nông dân. Người khẳng định: “Trong bao năm kháng chiến chống thực dân Pháp, tiếp đến chống đế quốc Mỹ, đồng bào ta, nhất là đồng bào nông dân đã luôn luôn hết sức trung thành với Đảng và Chính phủ ta, ra sức góp của góp người, vui lòng chịu đựng mọi khó khăn gian khổ. Nay ta đã hoàn toàn thắng lợi, tôi có ý đề nghị miễn thuế nông nghiệp 1 năm cho các hợp tác xã nông nghiệp để cho đồng bào hỉ hả, mát dạ, mát lòng, thêm niềm phấn khởi, đẩy mạnh sản xuất”(8). Có lẽ đây là quan điểm của Hồ Chí Minh học từ truyền thống tốt đẹp của nhiều triều đại phong kiến Việt Nam trước đây đề ra và thực thi chính sách nới sức dân, an dân sau những năm tháng nhân dân phải đóng góp nhiều sức người, sức của cho cuộc đấu tranh chống giặc ngoại xâm. Từ đó, Người nhấn mạnh: “Đảng cần phải có kế hoạch thật tốt để phát triển kinh tế và văn hóa, nhằm không ngừng nâng cao đời sống của nhân dân”(9). “Công việc đối với con người” là những lời dặn dò thể hiện tình nhân ái bao la, chủ nghĩa nhân văn trong sáng của Hồ Chí Minh; sự biểu cảm xuất phát từ tư duy của một người cách mạng suốt đời hết lòng hết sức chăm lo đến đời sống của mọi người dân, nhất là với những người dễ bị tổn thương.
Trong Di chúc, Hồ Chí Minh căn dặn, đối với những người đã dũng cảm hy sinh một phần xương máu của mình (cán bộ, binh sĩ, dân quân, du kích, thanh niên xung phong,…), Đảng, Chính phủ và đồng bào phải tìm mọi cách làm cho họ có nơi ăn, ở yên ổn; đồng thời, phải mở những lớp dạy nghề thích hợp với từng đối tượng. Với các liệt sĩ, mỗi địa phương cần xây dựng vườn hoa và bia kỷ niệm ghi sự hy sinh anh dũng của họ, để đời đời giáo dục tinh thần yêu nước cho nhân dân ta. Với cha mẹ, vợ con của thương binh và liệt sĩ thiếu sức lao động mà túng thiếu, thì chính quyền địa phương phải giúp đỡ họ có công việc làm ăn thích hợp, quyết không để họ đói rét. Với những chiến sĩ trẻ tuổi trong lực lượng vũ trang nhân dân và thanh niên xung phong đều đã được rèn luyện trong chiến đấu và đều tỏ ra dũng cảm, Đảng và Chính phủ cần chọn một số ưu tú nhất, cho các cháu ấy đi học thêm ngành, nghề để đào tạo thành những cán bộ và công nhân có kỹ thuật giỏi, tư tưởng tốt, lập trường cách mạng vững chắc, vì đó là đội quân chủ lực trong công cuộc xây dựng thắng lợi chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Với phụ nữ, “Đảng và Chính phủ cần phải có kế hoạch thiết thực để bồi dưỡng, cất nhắc và giúp đỡ để ngày thêm nhiều phụ nữ phụ trách mọi công việc kể cả công việc lãnh đạo. Bản thân phụ nữ thì phải cố gắng vươn lên. Đó là một cuộc cách mạng đưa đến quyền bình đẳng thật sự cho phụ nữ”(10). Với những nạn nhân của chế độ xã hội cũ, Người căn dặn, Nhà nước vừa phải dùng giáo dục, vừa phải dùng pháp luật để cải tạo họ, giúp họ trở nên những người lao động lương thiện. Ngoài ra, Hồ Chí Minh còn căn dặn Đảng, Nhà nước và nhân dân ta về kế hoạch xây dựng lại thành phố và làng mạc đẹp đẽ, đàng hoàng hơn trước chiến tranh; khôi phục và mở rộng các ngành kinh tế; phát triển công tác vệ sinh, y tế; sửa đổi chế độ giáo dục cho phù hợp với hoàn cảnh mới của nhân dân; củng cố quốc phòng, chuẩn bị mọi việc để thống nhất Tổ quốc.
Chúng ta đang sống trong thời đại phát triển thần kỳ của công nghệ thông tin, trong đó có interne t đưa lại tin tức “mở” vô cùng phong phú nhưng cũng cực kỳ phức tạp. Ở đó, mọi thông tin “thượng vàng hạ cám” đều có. Lợi dụng “độ mở” ấy, nhiều kẻ táng tận lương tâm đã và đang xuyên tạc lịch sử Việt Nam, đả kích thần tượng Hồ Chí Minh và sự nghiệp đấu tranh giải phóng con người của Bác; xuyên tạc, bóp méo những thành tựu về bảo đảm và phát huy nhân quyền mà nhân dân ta dưới sự lãnh đạo của Đảng đã giành được, nhất là trong những năm đổi mới. Thực tế cho thấy, những quan điểm về nhân quyền mà Hồ Chí Minh nhấn mạnh trong Di chúc đã được toàn Đảng, toàn quân và toàn dân ta tích cực thực hiện. Các thế lực thù địch đã cố tình nhắm mắt làm ngơ đối với những thành tựu về nhân quyền Việt Nam đã đạt được sau bao nhiêu năm chiến tranh. Chúng mở rộng địa bàn hoạt động, tận dụng những diễn đàn, dù là nhỏ nhất, trên phạm vi quốc tế; sử dụng độ nhanh nhạy của internet và mạng xã hội để bôi đen những gì mà Việt Nam đạt được trong quá trình bảo đảm và phát huy nhân quyền theo quan điểm của Hồ Chí Minh đã nêu trong Di chúc. Hiện nay, Việt Nam đã tiến những bước dài về thực hiện mục tiêu: “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”, mà ở đó quyền con người ngày càng được đảm bảo tốt hơn. Mức sống về vật chất và tinh thần của nhân dân được cải thiện rõ rệt. Điều đáng chú ý nhất ở một nước nông nghiệp - đất nước gần 100 triệu người - là vấn đề lương thực. Nhưng với Việt Nam, thì từ chỗ thiếu ăn, đã vươn lên bảo đảm được; không những thế, còn đứng vào những “cường quốc” xuất khẩu lương thực trên thế giới. Việt Nam được Liên hợp quốc và cộng đồng quốc tế đánh giá cao trong việc đạt được nhiều mục tiêu thiên niên kỷ, đặc biệt là xóa đói giảm nghèo; tăng trưởng đi đôi với sự tiến bộ và công bằng xã hội, thực thi những chính sách xã hội, chăm lo đến sự phát triển con người.
Cùng với đó, cả nước đã thực hiện tốt đạo lý “Uống nước nhớ nguồn”, “Đền ơn đáp nghĩa”, tích cực giáo dục tinh thần yêu nước cho thế hệ trẻ về việc ghi nhớ công lao của các thế hệ ông cha trong các cuộc kháng chiến và chiến đấu giành độc lập dân tộc, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Đất nước Việt Nam đã trải qua những năm tháng cam go của chiến tranh, hầu như không gia đình nào là không có sự hy sinh, mất mát. Thực hiện Di chúc của Hồ Chí Minh, Đảng và Nhà nước ta đã có nhiều chính sách đối với người có công. Trên thực tế, các “gia đình chính sách”, thương binh đã nhận được sự quan tâm chăm lo của cả hệ thống chính trị và các tầng lớp nhân dân. Việc phong tặng danh hiệu “Bà mẹ Việt Nam Anh hùng”; những nghĩa trang liệt sĩ được xây dựng, tôn tạo; công cuộc quy tập mộ liệt sĩ,… chính là sự tri ân của các thế hệ người Việt Nam đối với những người đã cống hiến sức lực, trí tuệ, tính mạng cho độc lập, tự do của dân tộc và sự phát triển của đất nước. Sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa, đổi mới, hội nhập quốc tế, dưới sự lãnh đạo của Đảng, dựa trên nền tảng chủ nghĩa Mác – Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh đã đưa Việt Nam thoát khỏi nhóm các nước nghèo để bước vào nhóm các nước phát triển trung bình. Tỷ trọng các ngành công nghiệp, dịch vụ ngày càng lớn; nông thôn, nông nghiệp, nông dân là mặt trận mà cả hệ thống chính trị đất nước đang chăm lo phát triển. Việc xây dựng nông thôn mới đã bước đầu làm thay đổi bộ mặt nông thôn, góp phần tích cực nâng cao dân trí, cải thiện đời sống cho người dân nông thôn. Ngoài phát triển kinh tế, sự nghiệp văn hóa - xã hội phát triển mạnh; sự nghiệp giáo dục, chăm lo sức khỏe cho con người có sự tiến bộ vượt bậc; nhiều giá trị mới tích cực, tiến bộ đã hình thành và phát huy tác dụng thúc đẩy đất nước phát triển, v.v. Qua đó, vừa nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân, vừa góp phần quan trọng vào tăng cường tiềm lực quốc phòng, an ninh cho đất nước, đáp ứng yêu cầu ngày càng cao cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Trên tầm quốc tế, Việt Nam đã ký Công ước quốc tế về Quyền con người và hiện nay đang là thành viên tích cực của Hội đồng Nhân quyền của Liên hợp quốc nhiệm kỳ 2014 - 2016. Với vai trò này, Việt Nam không những có thêm điều kiện thuận lợi để thúc đẩy tích cực hơn nữa việc bảo đảm và phát huy nhân quyền trên đất nước mình, mà còn đóng góp tích cực vào giải quyết vấn đề nhân quyền của quốc tế. Đó là một thực tế không thể phủ nhận!
Như vậy, Việt Nam đang đi theo hướng tiếp cận đúng mà Hồ Chí Minh đã mở ra trước đây: Vừa tôn trọng giá trị phổ quát của vấn đề nhân quyền, vừa phát huy những giá trị văn hóa tốt đẹp của dân tộc Việt Nam. Vấn đề bảo đảm và phát huy quyền con người đã được Hiến pháp năm 2013 của nước ta dành một phần rất quan trọng để thể hiện, đặc biệt là nội dung kết hợp những giá trị chung của quốc tế với những giá trị nhân quyền Việt Nam. Đại hội XII của Đảng đã nhấn mạnh: “Xây dựng con người Việt Nam phát triển toàn diện phải trở thành một mục tiêu của chiến lược phát triển”11.
__________________
1 - Hồ Chí Minh - Toàn tập, Tập 4, Nxb CTQG, H. 2011, tr. 64.
2 - Sđd, Tập 15, tr. 175.
3 - Sđd, tr. 626 - 627.
4 - Sđd, tr. 624.
5 - Sđd, tr. 616.
6 - Sđd, tr. 612.
7 - Sđd - Tập 7, tr. 50.
8 - Sđd - Tập 15, tr. 617.
9 - Sđd, tr. 612.
10 - Sđd, tr. 617.
GS, TS. MẠCH QUANG THẮNG, ThS. ĐOÀN HẢI YÊN
Theo Tạp chí Quốc phòng toàn dân