Về xây dựng và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa, V.I. Lê-nin cho rằng: “Một cuộc cách mạng chỉ có giá trị khi nó biết tự vệ” (1). Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng từng căn dặn: “Các vua Hùng đã có công dựng nước, Bác cháu ta phải cùng nhau giữ lấy nước” (2). Đây là triết lý của Chủ tịch Hồ Chí Minh về phát triển đất nước theo tinh thần “nước độc lập mà dân không hưởng hạnh phúc, tự do thì độc lập cũng chẳng có nghĩa lý gì” chính là quy luật của cách mạng Việt Nam. Nội dung của quy luật này gồm học thuyết giải phóng và học thuyết phát triển, trong đó chứa đựng cả hai nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Chủ tịch Hồ Chí Minh với Đoàn đại biểu anh hùng, chiến sĩ thi đua các lực lượng vũ trang nhân dân giải phóng miền Nam ra thăm miền Bắc (năm 1965). Ảnh tư liệu
Cách mạng Tháng Tám năm 1945 thành công, nhân dân ta giành được chính quyền, trong Tuyên ngôn độc lập ngày 2-9-1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ rõ: “Toàn thể dân tộc Việt Nam quyết đem tất cả tinh thần và lực lượng, tính mạng và của cải để giữ vững quyền tự do, độc lập ấy” (3). Khi kẻ thù trở lại xâm lược nước ta một lần nữa, Người kêu gọi: “Tất cả quốc dân Việt Nam phải đứng dậy bảo vệ Tổ quốc” (4).
Hai tháng sau khi đồng bào miền Nam bước vào cuộc kháng chiến, ngày 25-11-1945, Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh ra Chỉ thị “Kháng chiến, kiến quốc”. Thực dân Pháp và các thế lực phản động đang âm mưu thôn tính nước ta, “cuộc cách mạng Đông Dương lúc này vẫn là một cuộc cách mạng dân tộc giải phóng… Giai cấp vô sản vẫn phải hăng hái, kiên quyết hoàn thành nhiệm vụ thiêng liêng ấy. Khẩu hiệu vẫn là “Dân tộc trên hết”, “Tổ quốc trên hết”, “Kẻ thù chính của ta lúc này là thực dân Pháp xâm lăng, phải tập trung ngọn lửa đấu tranh vào chúng” (5).
Chỉ thị “Kháng chiến, kiến quốc” đã thể hiện rõ tư tưởng trong khi đặt nhiệm vụ kháng chiến lên hàng đầu, Chủ tịch Hồ Chí Minh đồng thời coi trọng nhiệm vụ xây dựng đất nước về mọi mặt; xây dựng chế độ mới phải đi đôi với bảo vệ chế độ mới; phải vừa kháng chiến, vừa kiến quốc. Kháng chiến để đánh bại thế lực đế quốc xâm lược, kiến quốc để xóa bỏ tàn dư chế độ cũ, phát triển đất nước, củng cố hậu phương vững chắc. Hai nhiệm vụ chiến lược này được kết hợp chặt chẽ trong suốt quá trình chiến tranh cách mạng. Bên cạnh đó, Chỉ thị đề ra những nhiệm vụ cụ thể về nội chính, quân sự, ngoại giao, kinh tế, văn hóa, chỉ rõ những nội dung về xây dựng Đảng, cải tổ Chính phủ, về kháng chiến ở miền Nam và đoàn kết với nhân dân các nước…
Để đẩy mạnh sự nghiệp kháng chiến, Chủ tịch Hồ Chí Minh phát động phong trào tăng gia sản xuất, “thực túc, binh cường”. Người nhấn mạnh: “Vì cứu quốc, các chiến sĩ đấu tranh ở ngoài mặt trận, vì kiến quốc, nhà nông phấn đấu ngoài đồng ruộng. Chiến sĩ ra sức giữ gìn nước non. Nhà nông ra sức giúp đỡ chiến sĩ. Hai bên công việc khác nhau, nhưng thật ra là hợp tác. Cho nên hai bên đều có công với dân tộc, đều là anh hùng”(6).
Thực hiện chủ trương vừa kháng chiến, vừa kiến quốc, quân và dân ta đã giải quyết cả ba nhiệm vụ diệt giặc đói, diệt giặc dốt, diệt giặc ngoại xâm; không ngừng củng cố và tăng cường hệ thống chính trị nhằm thúc đẩy cả hai mặt xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Nhờ đó, vùng tự do được bảo vệ, vùng giải phóng ngày càng được mở rộng; từng bước xây dựng và bảo vệ vững chắc chế độ mới trong vùng ta kiểm soát, thực hiện được “thực túc, binh cường” và giải quyết vấn đề vũ khí, trang bị, kỹ thuật cho lực lượng vũ trang. Bên cạnh việc đánh và cướp vũ khí của địch, Chính phủ đã phát động nhân dân tự tạo, sắm sửa vũ khí, đồng thời xây dựng các công binh xưởng sản xuất, sửa chữa, cải tạo vũ khí. Đại hội II của Đảng (2-1951), với khẩu hiệu “tất cả cho tiền tuyến, tất cả để chiến thắng”, Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng ta chủ trương: Các mặt công tác chính trị, kinh tế, văn hóa đều nhằm mục đích làm cho quân sự thắng lợi, đồng thời đấu tranh quân sự phải kết hợp với đấu tranh chính trị, kinh tế.
Với tư tưởng vừa kháng chiến, vừa kiến quốc, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã giải quyết đúng đắn mối quan hệ giữa dựng nước và giữ nước trong từng thời điểm lịch sử cụ thể, đưa cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp tới thắng lợi.
Sau cuộc kháng chiến chống Pháp thắng lợi, miền Bắc bước vào thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, thì ở miền Nam, Mỹ - Diệm trắng trợn phá hoại Hiệp định Giơ-ne-vơ, đàn áp dã man những người cộng sản và đồng bào yêu nước. Trong báo cáo “Tình hình mới, nhiệm vụ mới” tại Hội nghị Trung ương 6, ngày 17-7-1954, Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: “Hiện nay đế quốc Mỹ là kẻ thù chính của nhân dân thế giới, và nó đang trở thành kẻ thù chính và trực tiếp của nhân dân Đông Dương, cho nên mọi việc của ta đều nhằm chống đế quốc Mỹ”(7) và “chống Mỹ, cứu nước là nhiệm vụ thiêng liêng nhất của mọi người Việt Nam yêu nước”(8). Đồng thời, Người chỉ rõ vai trò của miền Bắc trong sự nghiệp đấu tranh thống nhất nước nhà: “Nền có vững, nhà mới chắc; gốc có mạnh, cây mới tốt. Miền Bắc là nền tảng, là gốc rễ lực lượng đấu tranh của toàn dân ta, cho nên chúng ta phải làm cho nó thật vững, thật mạnh”(9).
Khai mạc Đại hội lần thứ III của Đảng (năm 1960), Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định hai nhiệm vụ chiến lược của cách mạng Việt Nam: “Đại hội xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc và đấu tranh hoà bình thống nhất nước nhà”(10). Đại hội xác định những nhiệm vụ của cách mạng ở hai miền Nam - Bắc. Nhiệm vụ của miền Bắc là xây dựng chủ nghĩa xã hội, thuộc chiến lược cách mạng xã hội chủ nghĩa. Nhiệm vụ của miền Nam là tiến hành cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân, thuộc chiến lược cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân. Song cách mạng hai miền đều có mục tiêu chung là hoàn thành cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân trong cả nước, thực hiện hòa bình, thống nhất đất nước. Hai nhiệm vụ chiến lược nói trên có quan hệ mật thiết, thúc đẩy lẫn nhau. Nhiệm vụ cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc là nhiệm vụ quyết định nhất đối với sự phát triển của toàn bộ sự nghiệp cách mạng Việt Nam, trong đó có sự nghiệp đấu tranh thống nhất đất nước. Cách mạng miền Nam có tác dụng quyết định trực tiếp đối với sự nghiệp giải phóng miền Nam và hoàn thành cách mạng dân tộc dân chủ trong cả nước. Đến đây, tư tưởng Hồ Chí Minh về tiến hành đồng thời hai chiến lược cách mạng đã phát triển lên một trình độ mới, trở thành đường lối cách mạng của Đảng. Chủ tịch Hồ Chí Minh cùng toàn Đảng đã vận dụng và xử lý hài hòa quan hệ giữa xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong điều kiện lịch sử cụ thể.
Thực hiện đường lối trên, miền Bắc thể hiện xuất sắc vai trò của mình, đó “vừa là căn cứ địa cách mạng của cả nước, vừa là hậu phương lớn của cuộc kháng chiến chống Mỹ, vừa là tiền tuyến trực tiếp chiến đấu ác liệt với máy bay và tàu chiến Mỹ” (11). Chỉ có lập trường kiên định chống xâm lược, có chế độ chính trị ưu việt, có cách tổ chức sản xuất và tổ chức đời sống xã hội tốt, miền Bắc mới có thể làm tròn nghĩa vụ với tiền tuyến lớn, làm tròn vai trò lịch sử của mình.
Đặc biệt, trong thực hiện hai nhiệm vụ chiến lược cách mạng là việc giải quyết nhuần nhuyễn, sáng tạo quan hệ giữa xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong những điều kiện lịch sử cụ thể. Đó là, trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, nước ta vừa giành được độc lập, chính quyền cách mạng còn non trẻ và kẻ thù đã đứng chân ngay trên đất nước ta. Trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, chúng ta có miền Bắc hoàn toàn giải phóng, miền Nam vẫn trong sự thống trị của đế quốc Mỹ và tay sai. Như vậy, việc giải quyết mối quan hệ giữa kháng chiến và kiến quốc, xây dựng và bảo vệ đất nước có khác nhau.
Thực tiễn cách mạng Việt Nam chứng minh, trong 30 năm kháng chiến, nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc có mối quan hệ mật thiết, bền vững, thúc đẩy lẫn nhau. Có xây dựng được vùng tự do, cụ thể là xây dựng được miền Bắc vững mạnh mới có đủ sức mạnh chiến thắng kẻ thù. Ngược lại, có đánh bại được mọi âm mưu chiến lược của địch mới có thể bảo vệ vững chắc vùng tự do và hậu phương chiến lược, tiến tới giải phóng hoàn toàn Tổ quốc. Đây cũng là bài học quý báu trong thời bình. Chỉ có xây dựng đất nước giàu mạnh với chế độ tốt đẹp, chế độ xã hội chủ nghĩa, mới tạo ra được nguồn lực dồi dào cho sự nghiệp giữ nước. Và, chỉ có xây dựng được nền quốc phòng toàn dân vững mạnh, đủ sức đánh bại mọi kẻ thù thì mới giữ được hòa bình, ổn định, tạo môi trường thuận lợi cho xây dựng đất nước.
Cán bộ, chiến sĩ Cảnh sát biển Việt Nam đoàn kết giữ vững chủ quyền (ảnh: Nguyễn Á). Nguồn: canhsatbien.vn
Giải quyết mối quan hệ giữa xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc dưới ánh sáng tư tưởng Hồ Chí Minh
Xây dựng và bảo vệ Tổ quốc là tổng thể các công việc không tách rời nhau, rất khó khăn, phức tạp, hết sức to lớn, nặng nề, nhưng cũng rất vẻ vang. Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: “Đây là một cuộc chiến đấu chống lại những gì đã cũ kỹ, hư hỏng, để tạo ra những cái mới mẻ, tốt tươi”. Tư tưởng khoa học, cách mạng và nhân văn này của Người đã được Đảng ta vận dụng, phát triển sáng tạo trong tình hình mới.
Xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc là hai nhiệm vụ chiến lược của cách mạng Việt Nam trong tình hình mới. Mối quan hệ giữa hai nhiệm vụ trong Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (Bổ sung, phát triển năm 2011) được xác định là mối quan hệ lớn cần giải quyết tốt trong thời kỳ quá độ. Xây dựng “nước ta trở thành một nước xã hội chủ nghĩa ngày càng phồn vinh, hạnh phúc” là một quá trình cách mạng sâu sắc, triệt để, đấu tranh phức tạp giữa cái mới và cái cũ nhằm tạo ra sự biến đổi về chất trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội. Bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa có nội dung toàn diện cả trên phương diện lịch sử và chính trị - xã hội trong chỉnh thể thống nhất, “bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc, bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân, chế độ xã hội chủ nghĩa, nền văn hóa và lợi ích quốc gia - dân tộc; giữ vững môi trường hòa bình, ổn định chính trị, an ninh quốc gia, an ninh con người; xây dựng xã hội trật tự, kỷ cương, an toàn, lành mạnh để phát triển đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa” (13). Bảo đảm quốc phòng, an ninh để bảo vệ vững chắc Tổ quốc là nhiệm vụ “trọng yếu, thường xuyên” của Đảng, Nhà nước, hệ thống chính trị và toàn dân.
Mối quan hệ giữa xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa được thể hiện trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội.
Về lĩnh vực chính trị, là xây dựng, bảo vệ đường lối chính trị, hệ tư tưởng của Đảng ta, bảo vệ Cương lĩnh, xây dựng, bảo vệ Đảng, Nhà nước, chế độ xã hội chủ nghĩa…
Về lĩnh vực kinh tế, là xây dựng và phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, bảo vệ những cơ sở vật chất kỹ thuật kinh tế trọng yếu của đất nước, đấu tranh giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa trong điều kiện phát triển kinh tế thị trường hiện nay; giải quyết hài hòa mối quan hệ giữa phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội, đối ngoại với quốc phòng, an ninh.
Về lĩnh vực văn hóa, là xây dựng, bảo vệ nền văn hóa xã hội chủ nghĩa tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc; xây dựng giá trị chuẩn mực của văn hóa xã hội chủ nghĩa và đấu tranh chống lại tư tưởng, quan điểm phản giá trị văn hóa, nhất là những tàn dư của văn hóa phong kiến lạc hậu, sự thâm nhập của cái gọi là “giá trị văn hóa phương Tây”.
Về lĩnh vực quốc phòng, an ninh, đối ngoại, là xây dựng, bảo vệ tiềm lực, thế trận quốc phòng toàn dân, an ninh nhân dân, xây dựng và bảo vệ các lực lượng vũ trang nhân dân, quân đội nhân dân và công an nhân dân, xây dựng và bảo vệ nền ngoại giao Việt Nam...
Mối quan hệ giữa xây dựng và bảo vệ Tổ quốc thể hiện ở tất cả các cấp, các ngành, trên quy mô toàn quốc cũng như trên từng địa phương, cơ sở, đơn vị, doanh nghiệp, trong nhận thức cũng như trong tổ chức hoạt động thực tiễn. Đảng, Nhà nước, nhân dân và cả hệ thống chính trị là chủ thể nhận thức và giải quyết mối quan hệ này trong thực tiễn, thể hiện ở việc đề xuất giải pháp, biện pháp, phương thức xây dựng và tổ chức thực hiện đường lối, chính sách kết hợp giữa xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, giữa phát triển kinh tế - xã hội với củng cố quốc phòng, an ninh, đối ngoại.
Trong quá trình lãnh đạo cách mạng Việt Nam, thấm nhuần tư tưởng Hồ Chí Minh, Đảng ta luôn nhận thức rõ và giải quyết tốt mối quan hệ giữa xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Bảo vệ Tổ quốc không chỉ là phòng ngừa mà trước hết phải chăm lo xây dựng đất nước mạnh lên về mọi mặt, nhất là phải khắc phục được nguy cơ tụt hậu về kinh tế; đi đôi với đấu tranh phòng, chống tệ quan liêu, nạn tham nhũng, sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống trong một bộ phận cán bộ, đảng viên và nhân dân, đấu tranh làm thất bại âm mưu, thủ đoạn “diễn biến hòa bình” và “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ.
Thành tựu to lớn và có ý nghĩa đặc biệt quan trọng trong giải quyết mối quan hệ giữa xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa là chúng ta giữ vững và kiên trì, kiên quyết đấu tranh bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ đất nước, lợi ích quốc gia - dân tộc, khẳng định vai trò lãnh đạo của Đảng và kiên định xây dựng chế độ xã hội chủ nghĩa; đẩy mạnh phát triển kinh tế, nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân; giữ vững an ninh chính trị và trật tự, an toàn xã hội; củng cố lòng tin của nhân dân đối với Đảng và chế độ; tạo lập và củng cố môi trường quốc tế thuận lợi, mở rộng quan hệ đối ngoại và hội nhập sâu rộng quốc tế; củng cố và tăng cường nội lực, nâng cao vị thế và uy tín của đất nước trên trường quốc tế. Nhận thức về quốc phòng, an ninh, đối ngoại của cả hệ thống chính trị và toàn xã hội có bước tiến mới; trong quá trình xây dựng và phát triển kinh tế - xã hội, luôn quan tâm và chú trọng đến nhiệm vụ quốc phòng; nâng cao khả năng huy động các nguồn lực kinh tế - xã hội, văn hóa, giáo dục, khoa học - công nghệ, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc; xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân từng bước chính quy, hiện đại, nâng cao khả năng dự báo chiến lược, ngăn chặn, loại trừ nguy cơ chiến tranh và chủ động chuẩn bị về mọi mặt, sẵn sàng các phương án bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ trong mọi tình huống; hình thành thế chiến lược bảo vệ Tổ quốc trong điều kiện mới, thế trận quốc phòng toàn dân, thế trận an ninh nhân dân được triển khai rộng khắp, chặt chẽ và liên hoàn, củng cố được “thế trận lòng dân” ngày càng vững chắc… Những thành tựu cơ bản đó đã chứng minh tính đúng đắn, sáng tạo trong đường lối cách mạng của Đảng ta, đồng thời khẳng định tiềm năng và sức mạnh to lớn của nhân dân ta trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Tuy nhiên, quá trình giải quyết mối quan hệ giữa xây dựng và bảo vệ Tổ quốc hiện nay vẫn còn những hạn chế nhất định. Một bộ phận cán bộ, đảng viên và nhân dân nhận thức chưa đầy đủ về mối quan hệ giữa xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa, giữa bảo vệ Tổ quốc và bảo vệ chủ nghĩa xã hội, giữa độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Có lúc, có nơi vẫn còn có biểu hiện tách rời hai mặt hoặc tuyệt đối hóa chỉ một mặt của nhiệm vụ này hoặc coi bảo vệ Tổ quốc là trách nhiệm của riêng lực lượng vũ trang, của quân đội và công an. Ý thức về nhiệm vụ quốc phòng, an ninh của một số cơ quan, đơn vị, địa phương, của một bộ phận cán bộ, đảng viên và nhân dân chưa cao. Thực hiện các chính sách phát triển kinh tế - xã hội, các kế hoạch, quy hoạch phát triển kinh tế có lúc, có nơi còn làm ảnh hưởng đến quốc phòng, an ninh, nhất là đối với yêu cầu xây dựng cơ sở xã hội và thế bố trí chiến lược quốc phòng, xây dựng thế trận của nền quốc phòng toàn dân. Việc giải quyết mối quan hệ giữa kinh tế và quốc phòng, trong điều kiện nền kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế phát triển ngày càng mạnh mẽ, sâu rộng, đầu tư nước ngoài ngày càng tăng, còn nhiều bất cập và hạn chế. Sự phối hợp hoạt động giữa quốc phòng và an ninh trong thực hiện nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, xử lý các tình huống cụ thể có lúc, có nơi thiếu đồng bộ, chưa chặt chẽ; chưa gắn chặt giữa chiến lược phát triển kinh tế - xã hội với chiến lược quốc phòng, an ninh, chưa tạo nên sức mạnh tổng hợp cao...
Quá trình nhận thức và giải quyết mối quan hệ giữa xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa hiện nay đặt ra nhiều vấn đề cần phải tổng kết, phát triển cả về lý luận và thực tiễn. Cần tăng cường quán triệt, tuyên truyền, giáo dục nhận thức về mối quan hệ giữa xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Đẩy mạnh nghiên cứu, tổng kết, phát triển lý luận, đúc kết và vận dụng các bài học kinh nghiệm giải quyết nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa trong tình hình mới. Nhận thức và giải quyết kịp thời những mâu thuẫn, bất cập, khó khăn cản trở việc tăng cường mối quan hệ giữa xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Tăng cường giáo dục, củng cố niềm tin của nhân dân vào Đảng và chế độ xã hội chủ nghĩa; giáo dục lòng yêu nước với yêu chủ nghĩa xã hội.
Nhận thức và giải quyết mối quan hệ này không chỉ thể hiện trong quan điểm, chủ trương, chính sách ở tầm vĩ mô, mà còn phải trở thành nhận thức thường trực trong mỗi tổ chức, mỗi người dân, với niềm tin, trách nhiệm, ý chí quyết tâm hành động, góp phần xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam.
Giải quyết mối quan hệ giữa xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa đang diễn ra trong bối cảnh tình hình thế giới, khu vực tiếp tục có những biến động lớn, diễn biến nhanh chóng, phức tạp, khó dự báo. Cạnh tranh chiến lược giữa các nước lớn, xung đột về lợi ích dẫn đến bất ổn về an ninh đối với nhiều quốc gia. Ở trong nước, mặc dù “thế và lực, sức mạnh tổng hợp của quốc gia, uy tín quốc tế, niềm tin của nhân dân ngày càng được nâng cao, tạo ra những tiền đề quan trọng để xây dựng và bảo vệ Tổ quốc”(14), song vẫn còn nhiều “khó khăn, thách thức đan xen, đặt ra nhiều vấn đề mới, yêu cầu mới nặng nề, phức tạp hơn đối với sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc”(15). Các nguy cơ mà Đảng ta chỉ ra vẫn tồn tại, có mặt còn gay gắt hơn. Trước tình hình đó, càng cần kết hợp tốt mối quan hệ giữa xây dựng và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa:
Giải quyết mối quan hệ giữa xây dựng và bảo vệ Tổ quốc phải đặt ra trong tổng thể và không thể tách rời các mối quan hệ lớn khác. Văn kiện Đại hội XIII đã chỉ rõ: “Trong nhận thức và giải quyết các mối quan hệ lớn, phản ánh các quy luật mang tính biện chứng, những vấn đề lý luận cốt lõi trong đường lối đổi mới của Đảng, cần tiếp tục nắm vững và xử lý tốt các mối quan hệ lớn, trong đó có mối quan hệ giữa xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa” (16). Đây là vấn đề rất quan trọng, vừa là kết quả kinh nghiệm của hơn 35 năm đổi mới, vừa là phương hướng cơ bản cần thực hiện trong suốt thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội.
Giải quyết tốt mối quan hệ giữa phát triển bền vững trong xây dựng chủ nghĩa xã hội với bảo vệ Tổ quốc từ sớm, từ xa. Để giải quyết tốt mối quan hệ này, một trong những vấn đề đặt ra là xây dựng cơ chế phù hợp để các ngành, các cấp, mọi tổ chức và lực lượng thực hiện có hiệu quả việc kết hợp chặt chẽ giữa kinh tế, văn hóa, xã hội, đối ngoại với quốc phòng, an ninh và ngược lại để sự phát triển bền vững đáp ứng được nhu cầu hiện tại và không làm tổn hại đến khả năng đáp ứng nhu cầu đó của các thế hệ tương lai, trên cơ sở kết hợp chặt chẽ, hài hòa giữa tăng trưởng kinh tế và bảo đảm tiến bộ, công bằng xã hội, bảo vệ môi trường… Tiếp tục quán triệt và tổ chức thực hiện tốt chiến lược bảo vệ Tổ quốc, chiến lược quân sự, chiến lược quốc phòng, chiến lược an ninh và các chiến lược chuyên ngành khác nhằm bảo vệ đất nước; chủ động nhận diện các nhân tố bất lợi, nhất là các nhân tố bên trong có thể gây đột biến; giữ nước từ sớm, từ xa, từ khi nước chưa nguy, bằng sức mạnh tổng hợp của toàn dân tộc kết hợp với sức mạnh của thời đại. Xác định rõ một số tình huống quân sự, quốc phòng, dự kiến các tình huống có thể xảy ra, phù hợp với thực tiễn, đủ cơ sở để xác định quyết tâm, chủ động phòng ngừa, không để bị động, bất ngờ về chiến lược và sẵn sàng đối phó thắng lợi trong mọi tình huống.
Xây dựng nền quốc phòng toàn dân và an ninh nhân dân, tạo sức mạnh tổng hợp để bảo vệ Tổ quốc, sẵn sàng đánh thắng chiến tranh bằng vũ khí công nghệ cao. Xây dựng thế trận quốc phòng toàn dân gắn với thế trận an ninh nhân dân là đường lối đúng đắn và khoa học trong thời bình, sẵn sàng chuyển hóa thành lực lượng, thế trận chiến tranh nhân dân, đánh thắng mọi kẻ thù xâm lược, kể cả chiến tranh xâm lược bằng vũ khí công nghệ cao.
Giữ vững độc lập, chủ quyền về quốc phòng, an ninh trong quá trình hội nhập quốc tế. Độc lập, tự chủ về quốc phòng, an ninh là khả năng tự quyết định những vấn đề liên quan đến quốc phòng, an ninh; là năng lực tự bảo vệ của đất nước trước các hành động xâm phạm độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ, các quyền, lợi ích quốc gia, khả năng chống lại sự can thiệp từ bên ngoài vào công việc nội bộ của đất nước. Quá trình hội nhập quốc tế là quá trình tham gia và mở rộng các mối liên kết quốc tế trên tất cả các lĩnh vực, có nhiều cơ hội và thách thức đối với độc lập, tự chủ của đất nước trên lĩnh vực quốc phòng, an ninh. Hội nhập quốc tế và độc lập, tự chủ về quốc phòng, an ninh có mối quan hệ biện chứng; là tiền đề cơ sở của nhau, tác động thúc đẩy nhau phát triển. Trong đó, hội nhập quốc tế tạo điều kiện phát triển kinh tế - xã hội, làm tiền đề vật chất cho tăng cường quốc phòng, an ninh và bảo vệ Tổ quốc. Độc lập, tự chủ về quốc phòng, an ninh sẽ thúc đẩy hội nhập quốc tế đi đúng hướng, sâu rộng và đạt hiệu quả cao. Do đó, cần tỉnh táo, kiên định với những vấn đề mang tính nguyên tắc, nhưng khôn khéo, mềm dẻo, linh hoạt trong ứng xử, xử lý các mối quan hệ, xác định rõ và luôn kiên định lợi ích quốc gia - dân tộc là mục tiêu cao nhất trong quá trình hội nhập quốc tế, mọi vấn đề liên quan đến quan hệ đối ngoại và hội nhập quốc tế phải được soi chiếu từ lợi ích quốc gia - dân tộc. Bảo đảm cao nhất lợi ích quốc gia - dân tộc là giá trị cốt lõi trong quan hệ quốc tế.
Chủ động phòng, chống một cách hiệu quả, làm thất bại mọi âm mưu, hoạt động lợi dụng hội nhập quốc tế để chống phá ta của các thế lực thù địch; nâng cao năng lực dự báo tình hình quốc tế, khu vực, giữ vững độc lập, tự chủ trong hội nhập quốc tế. Cần nhận thức và xử lý đúng đắn mối quan hệ giữa đối tác và đối tượng, giữa hợp tác và đấu tranh trong từng tình huống cụ thể để có những ứng phó phù hợp, góp phần triển khai hiệu quả nhiệm vụ hội nhập quốc tế và đối ngoại quân sự, quốc phòng trong xây dựng và bảo vệ Tổ quốc hiện nay./.
----------------------
(1) V.I. Lê-nin: Toàn tập, Nxb. Tiến bộ, Mátxcơva, 1978, t. 37, tr. 29
(2) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2011, t. 9, tr. 59
(3) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 6, tr. 587
(4), (6) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 4, tr. 537, 134
(5) Văn kiện Đảng toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2000, t. 8, tr. 26
(7) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 8, tr. 555
(8) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 14, tr. 533
(9) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 10, tr. 144
(10) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 12, tr. 673
(11) Ban Chỉ đạo tổng kết chiến tranh trực thuộc Bộ Chính trị: Tổng kết cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước - Thắng lợi và bài học, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, tr. 215
(12) Văn kiện Ðảng toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2000, t.7, tr. 113
(13), (14), (15), (16) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2021, t. 1, tr. 156, 107, 109, 91