Đồng chí Lê Hồng Phong - Người học trò xuất sắc của Chủ tịch Hồ Chí Minh

Phần trưng bày về đồng chí Lê Hồng Phong tại Di tích lịch sử Nhà tù Hỏa Lò. Ảnh: Vietnamplus.vn

1. Những yếu tố hun đúc tinh thần yêu nước, phẩm chất cộng sản kiên cường của đồng chí Lê Hồng Phong

Đồng chí Lê Hồng Phong, tên thật là Lê Huy Doãn, sinh ra và lớn lên tại làng Thông Lạng, nay thuộc xã Hưng Thông, huyện Hưng Nguyên, tỉnh Nghệ An, một vùng đất địa linh nhân kiệt, mang đậm dấu ấn của truyền thống yêu nước, anh hùng bất khuất trong cuộc đấu tranh chống xâm lược của dân tộc.

Những truyền thống lịch sử đó đã ảnh hưởng sâu sắc tới tính cách, tình cảm, ước mơ và nuôi dưỡng tinh thần yêu nước, thương dân của người thanh niên trẻ tuổi đầy hoài bão Lê Huy Doãn. Do đó, sau khi cha mất, vừa học xong bậc sơ học, anh rời làng Thông Lãng ra Vinh, xin làm công cho một hiệu buôn của người Hoa kiều. Tại đây, anh kết bạn với Phạm Thành Khôi, người thanh niên cùng huyện, vừa tốt nghiệp Trường Kỹ nghệ thực hành Hải Phòng và đang làm việc ở Nhà máy Diêm Bến Thủy. Do có cùng chí hướng, đều có lòng yêu nước, căm thù giặc, hai người nhanh chóng trở thành thân thiết và Phạm Thành Khôi đã xin cho Lê Huy Doãn vào làm thợ máy ở Nhà máy Diêm. Sau Chiến tranh thế giới lần thứ Nhất, mặc dù là nước thắng trận, nhưng Pháp vẫn bị tổn hại nặng nề về kinh tế, nên tiến hành chính sách bóc lột thậm tệ ở các nước thuộc địa nói chung, Đông Dương nói riêng. Không chịu nổi cảnh áp bức nặng nề, công nhân các nhà máy ở Vinh - Bến Thủy, trong đó có Phạm Thành Khôi và Lê Huy Doãn đã vùng dậy đấu tranh.

Tháng 2 năm 1924, Lê Huy Doãn, Phạm Thành Khôi cùng một số thanh niên khác, vượt núi, xuyên rừng, sang Xiêm với khát vọng “chuyến đi này, nếu không làm rạng rỡ non sông, quyết không trở về Tổ quốc”. Để tỏ chí can trường, sẵn sàng hy sinh cứu nước, xem cái chết nhẹ tựa lông hồng, hai anh đổi tên là Phạm Hồng Thái và Lê Hồng Phong. Từ Xiêm (Thái Lan), hai anh đến Quảng Châu (Trung Quốc) và gia nhập Tâm Tâm Xã, một tổ chức cách mạng của những người yêu nước Việt Nam. Cuối năm 1924, Lê Hồng Phong may mắn gặp được lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc được Người giác ngộ cách mạng theo chủ nghĩa Mác - Lênin. Kể từ đây, Lê Hồng Phong quyết tâm đi theo con đường cứu nước của lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc.

Năm 1925, Lê Hồng Phong gia nhập Hội Việt Nam cách mạng thanh niên do lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc thành lập, Lê Hồng Phong là một trong những thanh niên Việt Nam đầu tiên gia nhập tổ chức cách mạng này. Cùng với các đồng chí khác, Lê Hồng Phong đã được Nguyễn Ái Quốc đào tạo để trở thành cán bộ cốt cán, một trong những hạt giống đỏ của cách mạng Việt Nam. Đây là bước ngoặt trong cuộc đời của Lê Hồng Phong vì từ đây đồng chí bắt đầu sự nghiệp của một nhà cách mạng chuyên nghiệp dưới sự dẫn dắt của lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc. Cùng năm 1925, Lê Hồng Phong được dự lớp huấn luyện chính trị do đồng chí Nguyễn Ái Quốc phụ trách, rồi được vào học trường võ bị Hoàng Phố. Cuối năm 1925, tốt nghiệp Trường Quân sự Hoàng Phố, anh học tiếp Trường Hàng không Quảng Châu, ngày 10-2-1926 trở thành đảng viên Đảng Cộng sản Trung Quốc. Nhờ kết quả học tập xuất sắc, tháng 10-1926, được sự giới thiệu của đồng chí Nguyễn Ái Quốc, Lê Hồng Phong được sang Liên Xô học tập lý luận cách mạng tại Trường Đại học Phương Đông (Liên Xô). Từ tháng 10 năm 1926 đến tháng 12 năm 1927, anh theo học Trường Lý luận Quân sự Không quân (B.B.C) tại Lê-nin-grát, rồi học tiếp Trường đào tạo phi công quân sự tại Bô-rít-xgơ-lép-xcơ, rồi đến tháng 12 năm 1928, Lê Hồng Phong lại vào học tại Trường Đại học Cộng sản của những người lao động phương Đông (KYTB), trở thành đảng viên Đảng Cộng sản Liên Xô và ở trong Ủy ban tổ chức Đảng nhóm Đông Dương và đã tốt nghiệp khóa 3 năm (1928-1931), sau đó tiếp tục học Nghiên cứu sinh năm thứ nhất.

Đến giữa năm 1931, khi mới 29 tuổi, sau 8 năm được đào tạo liên tục, chính quy, bài bản ở Trung Quốc, Liên Xô và trở thành đảng viên của 2 Đảng Cộng sản Trung Quốc và Đảng Cộng sản Liên Xô, đồng chí Lê Hồng Phong hội tụ được những yếu tố cần thiết để phục vụ sự nghiệp cách mạng của Đảng. Đối với phong trào cách mạng Việt Nam sau cao trào cách mạng 1930-1931, công việc cần kíp khi đó là gây dựng, phục hồi lại Bộ Tham mưu, người cầm lái của con thuyền cách mạng Việt Nam - Đảng Cộng sản Đông Dương - đang bị khủng hoảng cả về tổ chức lẫn lực lượng lãnh đạo.

2. Cống hiến của đồng chí Lê Hồng Phong đối với cách mạng Việt Nam và phong trào cách mạng thế giới (1932-1935)

Sau khi ra đời, với đường lối cách mạng cứu nước đúng đắn, Đảng đã quy tụ đoàn kết xung quanh mình các giai cấp và tầng lớp yêu nước, xây dựng nên lực lượng cách mạng to lớn và rộng khắp, đấu tranh chống thực dân Pháp và phong kiến tay sai vì sự nghiệp giải phóng dân tộc. Mở đầu là cao trào đấu tranh của nhân dân hai tỉnh Nghệ An và Hà Tĩnh (1930 - 1931), mặc dù phong trào đấu tranh diễn ra sôi nổi và mạnh mẽ, nhưng cuối cùng bị thất bại bởi thực dân Pháp đã thẳng tay đàn áp, dìm phong trào trong biển máu. Sau cao trào Xô viết - Nghệ Tĩnh, thực dân Pháp tiếp tục thực hiện cuộc khủng bố trắng cực kỳ khắc nghiệt, tấn công trực tiếp vào các cơ sở đảng, khiến cách mạng Việt Nam phải chịu những tổn thất lớn. Hàng vạn cán bộ, đảng viên và chiến sĩ yêu nước bị bắn giết hoặc bị tù đày, các cơ sở đảng tan vỡ hàng loạt.

Tháng 11-1931, đồng chí Lê Hồng Phong nhận nhiệm vụ của Quốc tế Cộng sản cử về nước tham gia Ban Chấp ủy Trung ương Đảng, lãnh đạo khôi phục, phát triển các tổ chức đảng và phong trào cách mạng. Đầu năm 1932, sau khi biết tin Ban Chấp ủy Trung ương không còn, đồng chí Lê Hồng Phong từ Pháp đến Trung Quốc đã chắp nối liên lạc với các nơi trong xứ, chuẩn bị những điều kiện cần thiết cho tái lập Ban Chấp ủy Trung ương Đảng. Từ tháng 4-1932, tại Nam Ninh (Quảng Tây-Trung Quốc), trong điều kiện vô cùng khó khăn, bị kẻ thù theo dõi gắt gao, đồng chí vẫn tìm mọi cách liên lạc với các cơ sở đảng trong nước, Lào, Xiêm và giữ liên hệ với Quốc tế Cộng sản. Năm 1932, nhờ những sự cố gắng của các đảng viên ở nước ngoài về và những đảng viên ở trong tù ra, tìm cách liên lạc, chắp nối ở nhiều địa phương và cùng với các đảng viên ở địa phương xây dựng lại cơ sở, khôi phục tổ chức đảng, lãnh đạo quần chúng đấu tranh. Đến cuối năm 1932, một số địa phương đã khôi phục, xây dựng lại cơ sở Đảng, nhưng do sự khủng bố gắt gao của kẻ thù, các cơ sở vừa mới xây dựng lại, bị phá vỡ. Hệ thống tổ chức Đảng từ cấp xã đến tỉnh, thành, đặc khu, chi bộ, cán bộ và đảng viên bị thiệt hại nặng nề. Ở Nam Kỳ, hầu hết các địa phương không còn tổ chức Đảng, chỉ còn một số cơ sở Đảng ở Đức Hòa, Càng Long, Long Xuyên,…Từ năm 1933, bất chấp sự khủng bố của kẻ thù, Đảng Cộng sản Đông Dương vẫn tồn tại, hoạt động, hệ thống tổ chức đảng dần dần được khôi phục. Tại Bắc Kỳ, đồng chí Lê Hồng Phong tìm cách xây dựng đường dây liên lạc với Quốc tế Cộng sản và từ Trung Quốc về các tỉnh Cao Bằng, Lạng Sơn. Các đồng chí Hoàng Văn Thụ, Hoàng Đình Giong, Lương Văn Tri và nhiều đồng chí khác tạo mọi điều kiện thuận lợi, giúp đồng chí Lê Hồng Phong nắm bắt tình hình, chắp nối liên lạc với các tổ chức đảng ở Bắc Kỳ, Trung Kỳ, Lào và Xiêm.

Thực hiện chỉ đạo của Quốc tế Cộng sản, tháng 3 năm 1934, đồng chí Lê Hồng Phong, Hà Huy Tập và Nguyễn Văn Dựt họp, quyết định chính thức thành lập Ban Chỉ huy ở ngoài của Đảng Cộng sản Đông Dương tại Ma Cao (Trung Quốc). Ban Chỉ huy ở ngoài gồm 3 người do Lê Hồng Phong làm Thư ký, Hà Huy Tập phụ trách công tác tuyên truyền cổ động và biên tập Tạp chí Bônsơvích, Nguyễn Văn Dựt phụ trách công tác thanh tra. Nhiệm vụ của Ban Chỉ huy ở ngoài là liên hệ với Ban Trung ương Chấp ủy Đảng Cộng sản Đông Dương, với Quốc tế Cộng sản và các Đảng Cộng sản, tập hợp, đào tạo cán bộ đảng; xuất bản tờ báo lý luận trung ương Bônsơvích. Với tinh thần đó, từ ngày 16 đến ngày 21 tháng 6 năm 1934, Hội nghị của Ban Chỉ huy ở ngoài với đại diện các tổ chức đảng ở trong nước được tiến hành tại Ma Cao dưới sự chủ trì của đồng chí Lê Hồng Phong. Hội nghị đề ra nhiệm vụ trước mắt là nhanh chóng khôi phục tổ chức đảng các cấp, củng cố các tổ chức đảng đã có, xây dựng và tổ chức mới ở các địa bàn quan trọng, tăng cường thành phần vào các cơ quan lãnh đạo của Đảng. Đồng thời, Hội nghị cũng thông qua nghị quyết về cơ cấu tổ chức và nhiệm vụ của Ban Chỉ huy ở ngoài; cử ra Ban Trung ương Chấp ủy lâm thời. Sau Hội nghị, tháng 6-1934, đồng chí Lê Hồng Phong chỉ đạo trực tiếp Tạp chí Bônsơvích với danh nghĩa là cơ quan của Ban Chỉ huy ở ngoài của Đảng Cộng sản Đông Dương. Với hoạt động tích cực của đồng chí Lê Hồng Phong, Ban Chỉ huy ở ngoài đã liên hệ, chỉ đạo với các tổ chức đảng trong nước, lập lại những cơ sở đảng ở những nơi bị vỡ, xây dựng cơ sở đảng ở những nơi chưa có, tiến tới thống nhất lực lượng cách mạng trong cả nước.

Từ ngày 27 đến ngày 31 tháng 3 năm 1935, Đại hội đại biểu lần thứ nhất của Đảng Cộng sản Đông Dương được tổ chức tại Ma Cao (Trung Quốc), đồng chí Lê Hồng Phong được bầu làm Tổng Bí thư của Đảng. Đại hội này là sự kiện chính trị có ý nghĩa lịch sử to lớn của cách mạng Việt Nam. Thành công của Đại hội là dấu hiệu đánh dấu sự phục hồi của Đảng, ghi nhận sự đóng góp to lớn của Ban Chỉ huy ở ngoài, đứng đầu là đồng chí Tổng Bí thư Lê Hồng Phong…Thay mặt Đoàn đại biểu, đồng chí Lê Hồng Phong cảm ơn Đại hội và khẳng định: “Đối với chúng tôi, Đại hội Quốc tế Cộng sản lần thứ VII là một trường học lớn, giúp chúng tôi tiếp thụ kinh nghiệm quý báu của 65 phân bộ quốc tế và trước hết của phân bộ lãnh đạo Quốc tế Cộng sản là Đảng Cộng sản Liên Xô”. Tại Đại hội, Đảng Cộng sản Đông Dương được công nhận là một phân bộ chính thức của Quốc tế Cộng sản. Đồng chí Lê Hồng Phong được bầu làm Ủy viên chính thức của Ban Chấp hành Quốc tế Cộng sản. Điều đó đã nói lên ảnh hưởng và uy tín của Đảng trong phong trào cộng sản và công nhân quốc tế….

 Ngày 22/6/1939, đồng chí Lê Hồng Phong bị thực dân Pháp bắt lần thứ nhất tại Chợ Lớn và kết án 6 tháng tù giam. Ngày 23/12/1939, chúng đưa đồng chí về quản thúc tại quê nhà ở Nghệ An. Ngày 20/1/1940, đồng chí bị thực dân Pháp bắt lần thứ hai, giam tại khám Lớn, Sài Gòn. Cuối năm 1940, chúng đày đồng chí ra Côn Đảo. Tại đây, biết Lê Hồng Phong là nhân vật quan trọng của Đảng, thực dân Pháp tìm mọi cách tra tấn, hành hạ rất dã man. Đồng chí vẫn nêu cao chí khí cách mạng, không khai báo một lời, đồng thời tích cực vận động và chỉ đạo anh em tù đấu tranh chống địch đánh đập, chống lại những luật lệ hà khắc của nhà tù. Sức khỏe suy kiệt dần vì đòn thù và bệnh tật, đồng chí đã trút hơi thở cuối cùng vào trưa 6/9/1942 sau khi đã nhắn lại "Nhờ các đồng chí báo cáo với Đảng rằng, tới giờ phút cuối cùng, Lê Hồng Phong vẫn một lòng tin tưởng vào thắng lợi vẻ vang của cách mạng".

******************************

Với 40 tuổi đời (1902-1942), gần 20 năm hoạt động cách mạng sôi nổi, đồng chí Lê Hồng Phong đã hiến dâng trọn đời mình cho sự nghiệp cách mạng vẻ vang của Đảng và dân tộc. Được sự dìu dắt, chỉ bảo và đào tạo của lãnh tụ Hồ Chí Minh, đồng chí đóng góp công sức to lớn vào khôi phục hệ thống tổ chức của Đảng trong những năm tháng khó khăn nhất khi Đảng vừa mới ra đời. Đồng chí Lê Hồng Phong còn là một nhà hoạt động quốc tế uy tín, đóng góp quan trọng cho phong trào cộng sản và công nhân quốc tế. Trên cương vị là Ủy viên Ban Chấp hành Quốc tế cộng sản, đồng chí đã truyền bá Chủ nghĩa Mác-Lênin và đường lối của Quốc tế Cộng sản vào phong trào cách mạng Việt Nam những năm ba mươi của thế kỷ XX và có công lao to lớn trong nỗ lực giành được sự công nhận quốc tế đối với Đảng Cộng sản Đông Dương, từ đó, phong trào cách mạng Việt Nam thực sự trở thành một bộ phận của phong trào cách mạng thế giới.

Phản hồi

Các tin khác

Mới nhất

Liên kết website