Sau 30 năm hoạt động cách mạng ở nước ngoài, ngày 28/01/1941, lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc trở về Tổ quốc, cùng với Trung ương Đảng trực tiếp lãnh đạo sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc.
Sự lãnh đạo của Trung ương Đảng và lãnh tụ là thống nhất và thể hiện ở việc đề ra, phát triển đường lối cách mạng giải phóng dân tộc, nêu cao ngọn cờ dân tộc. Đường lối đó được nêu ra tại Hội nghị Trung ương tháng 11/1939 do Tổng Bí thư Nguyễn Văn Cừ chủ trì và sau đó Hội nghị Trung ương tháng 5/1941 do Nguyễn Ái Quốc chủ trì đã phát triển hoàn chỉnh.
Đường lối cơ bản đó của Trung ương Đảng và lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc đã thúc đẩy sự phát triển nhanh chóng của phong trào cách mạng giải phóng dân tộc thông qua tổ chức thực tiễn. Và thực tiễn lại tiếp tục kiểm chứng, bổ sung, cụ thể hóa, khái quát hóa thành những chủ trương sát hợp với tình hình cách mạng, nhất là trước âm mưu, thủ đoạn của kẻ thù và diễn biến của Chiến tranh thế giới thứ hai.
Quần chúng cách mạng đánh chiếm Phủ Khâm sai ngày 19/8/1945. (Ảnh tư liệu)
Với sự phát triển mạnh mẽ của phong trào cách mạng, cần thiết phải thúc đẩy xây dựng lực lượng chính trị và lực lượng vũ trang để đi tới tổng khởi nghĩa. Ngày 22/12/1944, lãnh tụ Hồ Chí Minh thay mặt Trung ương Đảng ra Chỉ thị thành lập Đội Việt Nam Tuyên truyền Giải phóng quân. Cần phải động viên toàn dân, vũ trang toàn dân, phát triển mạnh mẽ các đội vũ trang ở địa phương, phối hợp tác chiến, thúc đẩy đấu tranh chính trị và đấu tranh vũ trang của quần chúng. Khi quân Nhật chiếm Đông Dương (tháng 9/1940), kẻ thù của cách mạng Việt Nam và Đông Dương là Pháp-Nhật, thế lực quân Nhật ngày càng phát triển, Đảng xác định kẻ thù là Nhật-Pháp. Ngày 9/3/1945, Nhật làm đảo chính, gạt Pháp khỏi Đông Dương, kẻ thù lúc này là Nhật. Trung ương Đảng ra bản Chỉ thị “Nhật-Pháp bắn nhau và hành động của chúng ta” (ngày 12/3/1945) phát động cao trào kháng Nhật, cứu nước.
Cao trào cách mạng ngày càng phát triển, tháng 5/1945, lãnh tụ Hồ Chí Minh rời Cao Bằng về Sơn Dương (Tuyên Quang), cùng Trung ương Đảng xây dựng trung tâm lãnh đạo, chỉ đạo cách mạng. Theo quyết định của Đảng, ngày 15/5/1945, Việt Nam Giải phóng quân được thành lập trên cơ sở thống nhất Cứu quốc quân và Việt Nam Tuyên truyền Giải phóng quân; ngày 4/6/1945, thành lập Khu giải phóng Việt Bắc-hình ảnh của nước Việt Nam độc lập. Nhiều địa phương trong cả nước cũng lập căn cứ địa, chiến khu, phát triển lực lượng chính trị, lực lượng vũ trang và đấu tranh vũ trang. Đã có những cuộc khởi nghĩa nổ ra với những kinh nghiệm đấu tranh rất phong phú, sáng tạo, như: Khởi nghĩa Thanh La ở Tuyên Quang (10/3/1945), Khởi nghĩa Ba Tơ, Quảng Ngãi (11/3/1945) và Tự vệ cứu quốc Hưng Yên đánh đồn Bần thắng lợi (12/3/1945)... Kinh nghiệm của các cuộc đấu tranh đó có ý nghĩa lớn đối với sự lãnh đạo, chỉ đạo của Đảng. Từ tháng 3 đến tháng 5/1945, Đảng phát động Phong trào “Phá kho thóc của Nhật, giải quyết nạn đói”. Từ mục tiêu đấu tranh về kinh tế, đời sống đã phát triển, giác ngộ chính trị quần chúng đứng lên tự cứu mình.
Tháng 8/1945, phong trào cứu nước phát triển đến đỉnh cao trên cả nước, quần chúng sẵn sàng hành động theo sự lãnh đạo của Đảng và Mặt trận Việt Minh. Đội quân xâm lược của Nhật liên tiếp thất bại trước sự tiến công của Liên Xô và Đồng minh, khiến chúng buộc phải tuyên bố đầu hàng Đồng minh (ngày 15/8/1945). Quân Nhật ở Việt Nam hoang mang, mất sức chiến đấu. Trong hoàn cảnh đó, lãnh tụ Hồ Chí Minh đã ra Lời kêu gọi tổng khởi nghĩa: “Toàn quốc đồng bào hãy đứng dậy đem sức ta mà tự giải phóng cho ta”. Ban Thường vụ Trung ương Đảng và lãnh tụ Hồ Chí Minh quyết định triệu tập Hội nghị đại biểu toàn quốc của Đảng họp ở Tân Trào (Tuyên Quang) từ ngày 13 đến 15/8/1945. Hội nghị nhận định: “Cơ hội rất tốt cho ta giành độc lập đã tới”. Mục tiêu của ta là “giành quyền độc lập hoàn toàn”. Đảng đề ra 3 nguyên tắc chỉ đạo khởi nghĩa là: Tập trung, thống nhất, kịp thời. Tập trung mọi lực lượng vào nhiệm vụ giành độc lập, giành chính quyền; thống nhất về quân sự, chính trị, hành động và chỉ huy; kịp thời hành động không bỏ lỡ cơ hội.
Lãnh tụ Hồ Chí Minh và Trung ương Đảng theo dõi chặt chẽ diễn biến trong nước và quốc tế. Người nói với các đồng chí của mình: "Lúc này thời cơ thuận lợi đã tới, dù hy sinh tới đâu, dù phải đốt cháy cả dãy Trường Sơn cũng phải kiên quyết giành cho được độc lập". Đó là kết tinh ý chí của toàn Đảng và khát vọng độc lập của cả dân tộc. Thực hiện quyết định của Đảng và lãnh tụ, Quốc dân đại hội được triệu tập họp ở Tân Trào ngày 16/8/1945, thành lập Ủy ban Giải phóng Dân tộc Việt Nam gồm 15 thành viên, do Hồ Chí Minh làm Chủ tịch. Ủy ban có nhiệm vụ chỉ đạo cuộc tổng khởi nghĩa của cả nước và khi khởi nghĩa thành công trở thành Chính phủ lâm thời của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.
Với đường lối, chủ trương đúng đắn, sự chỉ đạo thống nhất, kịp thời, cuộc tổng khởi nghĩa trên cả nước đã nhanh chóng giành thắng lợi trong nửa cuối tháng 8/1945. Cách mạng Tháng Tám là sự phát triển sáng tạo của khoa học nghệ thuật khởi nghĩa của Đảng và lãnh tụ Hồ Chí Minh, đặc biệt là sự chủ động xử lý đúng đắn tình thế và thời cơ cách mạng. Cách mạng Tháng Tám là thành quả của sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc, của ý chí tự lực tự cường của dân tộc Việt Nam. Đó cũng là kết quả của sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng và lãnh tụ Hồ Chí Minh; đồng thời khẳng định vai trò quan trọng, sự chủ động, sáng tạo của các cấp bộ đảng địa phương, các xứ ủy, thành ủy, tỉnh ủy đến tổ chức đảng ở cơ sở trong lãnh đạo, chỉ đạo khởi nghĩa.
Bài học thành công về sự lãnh đạo của Đảng trong Cách mạng Tháng Tám đã được Đảng ta phát triển trong các thời kỳ cách mạng tiếp theo, dẫn tới thắng lợi của các cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ xâm lược, hoàn thành trọn vẹn độc lập, thống nhất Tổ quốc, giành thắng lợi trong chiến tranh bảo vệ Tổ quốc và thực hiện thắng lợi công cuộc đổi mới, xây dựng chủ nghĩa xã hội hiện nay vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh, nâng cao và khẳng định vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế.
PGS, TS NGUYỄN TRỌNG PHÚC, Nguyên Viện trưởng Viện Lịch sử Đảng,
Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh
Nguồn: qdnd.vn