I. ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM
- ĐẢNG DUY NHẤT LÃNH ĐẠO XÃ HỘI
1. Vấn đề Đảng cầm quyền ở Việt Nam
Trong đời sống chính trị thế giới hiện đại, chế độ chính trị ở đa số các nước liên quan đến hoạt động của các đảng chính trị, nhất là đảng cầm quyền. Khái niệm “đảng cầm quyền” ở trên thế giới dùng để chỉ đảng nào giành được đa số ghế trong nghị viện. Một số nước còn quy định nếu đảng nào chiếm được 2/3 số ghế trong Nghị viện, thì đảng đó có quyền sửa đối hiến pháp. Đảng cầm quyền có vị trí, vai trò rất quan trọng trong hệ thống quyền lực của nhà nước. Sau khi đã chiếm được đa số ghế trong nghị viện, đảng cầm quyền có quyền đứng ra lập chính phủ và mọi hoạt động của chính phủ đều phải tuân thủ ý chí và nguyện vọng của đảng cầm quyền. Trong trường hợp không có một đảng nào chiếm được đa số ghế trong nghị viện thì sẽ lập nên chính phủ liên minh nhiều đảng. Những đảng không cầm quyền trở thành đảng đối lập trong nghị viện.
Như vậy, khái niệm "đảng cầm quyền” ở trên thế giới gắn với thể chế hoạt động của các đảng nghị viện, liên quan trực tiếp đến việc nắm cơ quan hành pháp.
Ở nước ta, vấn đề đảng cầm quyền không như vậy. Đảng Cộng sản Việt Nam không phải là đảng nghị viện. Nhiều lần Hồ Chí Minh khẳng định, Đảng ta là đảng cầm quyền. Trong bản Di chúc, Người khẳng định một lần nữa: “Đảng ta là một đảng cầm quyền. Mỗi đảng viên và cán bộ phải thật sự thấm nhuần đạo đức cách mạng, thật sự cần, kiệm, liêm, chính, chí công, vô tư. Phải giữ gìn Đảng ta thật trong sạch, phải xứng đáng là người lãnh đạo, là người đầy tớ thật trung thành của nhân dân" (1) .
"Đảng cầm quyền” ở nước ta không những chỉ là đảng lãnh đạo chính quyền mà còn là đảng lãnh đạo hệ thống chính trị và lãnh đạo toàn xã hội. Điều này, đã được ghi trong Hiến pháp nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 1992. Điều đó còn được thể chế hoá và được thể hiện bằng các văn bản khác của Nhà nước ta, đặc biệt là đã được thể hiện trong thực tế. Nhân dân ta, trên thực tế, đã thừa nhận vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam. Đảng lãnh đạo toàn xã hội bằng việc xác định đường lối xây dựng và bảo vệ đất nước. Đảng lãnh đạo toàn xã hội bằng việc tổ chức, triển khai thực hiện đường lối, chủ trương đưa đất nước phát triển kết hợp độc lập dân tộc với chủ nghĩa xã hội. Đảng lãnh đạo toàn xã hội bằng hệ thống tổ chức của mình trong hệ thống chính trị và bằng hành động thực tế tiên phong, gương mẫu của cán bộ, đảng viên. Đảng lãnh đạo xã hội thông qua công tác kiểm tra việc thực hiện đường lối, chủ trương đó.
Đảng Cộng sản Việt Nam được thành lập đầu năm 1930, lãnh đạo nhân dân đấu tranh giành chính quyền, lập nên nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà (nay là nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam) do thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám năm 1945. Từ đó cho đến nay, có lúc xã hội Việt Nam tồn tại nhiều đảng nhưng Đảng Cộng sản Việt Nam vẫn luôn luôn là đảng có vai trò lãnh đạo xã hội. Từ năm 1988 trở đi, khi hai đảng: Đảng Xã hội và Đảng Dân chủ đã tự giải thể thì xã hội Việt Nam chỉ còn một đảng duy nhất và tiếp tục đóng vai trò lãnh đạo, đó là Đảng Cộng sản Việt Nam. Việc xây dựng Đảng Cộng sản Việt Nam hiện nay là sự tiếp tục vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng một Đảng Cộng sản cầm quyền.
2. Đảng lãnh đạo chính quyền và các tổ chức chính trị - xã hội
Trong vai trò của đảng cầm quyền, vấn đề Đảng lãnh đạo chính quyền được Hồ Chí Minh coi là một nguyên tắc để bảo đảm nhà nước là nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân, nhà nước mang bản chất giai cấp công nhân. Những quan điểm chủ yếu sau đây của Hồ Chí Minh thể hiện nguyên tắc đó:
Một là, bảo đảm cho nhà nước giữ vững và tăng cường bản chất giai cấp công nhân.
Trong xây dựng nhà nước, Hồ Chí Minh coi tính chất giai cấp của nhà nước là vấn đề cơ bản của Hiến pháp. Lời nói đầu của Hiến pháp năm 1959 ghi rõ: “Nhà nước ta là nhà nước dân chủ nhân dân, dựa trên nền tảng liên minh công nông, do giai cấp công nhân lãnh đạo” (2) . Quan điểm của Hồ Chí Minh là nhân dân lao động làm chủ nhà nước do giai cấp công nhân mà đội tiên phong là Đảng Cộng sản lãnh đạo.
Hai là, Đảng lãnh đạo chính quyền cần phải chú ý bảo đảm cho bộ máy chính quyền cũng như cán bộ, công chức trong sạch, vững mạnh.
Hồ Chí Minh chú trọng việc Đảng cầm quyền phải xây dựng chính quyền thật sự trong sạch vững mạnh. Người nhấn mạnh những yêu cầu về cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư. Trong bức thư gửi ủy ban nhân dân các kỳ, tỉnh, huyện và làng, tháng 10-1945, Người viết: “Chúng ta phải hiểu rằng, các cơ quan của chính phủ từ toàn quốc cho đến các làng, đều là công bộc của dân, nghĩa là để gánh việc chung cho dân, chứ không phải để đè đầu dân như trong thời kỳ dưới quyền thống trị của Pháp, Nhật.
Việc gì lợi cho dân, ta phải hết sức làm.
Việc gì hại đến dân, ta phải hết sức tránh.
Chúng ta phải yêu dân, kính dân thì dân mới yêu ta, kính ta” (3) .
Hồ Chí Minh đặc biệt nhắc nhở các cấp chính quyền khắc phục những căn bệnh, nhất là quan liêu, lãng phí, tham ô và những tiêu cực khác mà Người gọi đó là “giặc nội xâm”.
Trong giai đoạn Đảng cầm quyền, Đảng đã cử nhiều đảng viên sang hoạt động trong các cơ quan nhà nước, trong đó nhiều người giữ những trọng trách. Hồ Chí Minh phê bình một số cán bộ, đảng viên cậy thế mình là người của tổ chức đảng để phớt lờ cả kỷ luật trong các cơ quan nhà nước. Người cho rằng, đảng viên không những phải chấp hành Điều lệ Đảng, các nghị quyết của Đảng mà còn thải phục tùng Hiến pháp và pháp luật của Nhà nước.
Ba là, Đảng lãnh đạo Nhà nước bằng phương thức thích hợp.
Đòi hỏi đầu tiên đối với Đảng cầm quyền là phải đề ra được đường lối, chủ trương đúng đắn. Đường lối đó phải được thể chế hoá bằng Hiến pháp, pháp luật, chính sách của Nhà nước.
Khi đề cập vấn đề nhà nước thì điều quan trọng là quyền lực thuộc về ai. Nhà nước kiểu mới theo tư tưởng Hồ Chí Minh, là bộ máy thể hiện quyền lực của nhân dân lao động. Nhà nước phát huy dân chủ để động viên tất cả lực lượng của nhân dân vào tham gia sự nghiệp cách mạng. Đảng lãnh đạo thông qua các tổ chức Đảng trong bộ máy Nhà nước bằng đội ngũ đảng viên ở các tổ chức đó. Về mặt chức năng, nhiệm vụ của Đảng và Nhà nước có khác nhau. Do đó, cần phải phân biệt vai trò lãnh đạo của Đảng và vai trò quản lý của Nhà nước. Nhưng một đặc điểm của nước ta từ năm 1945 cho đến năm 1975 là hệ thống chính trị chủ yếu dồn sức cho kháng chiến chống thực dân Pháp và kháng chiến chống đế quốc Mỹ. Trong điều kiện ấy, vai trò quản lý toàn diện của Nhà nước chưa được thể hiện rõ nét. Vì vậy, có thể nói trong tư tưởng Hồ Chí Minh không có một phương thức bất biến về sự lãnh đạo của Đảng đối với chính quyền. Trong điều kiện hiện nay chúng ta cần vận dụng sáng tạo quan điểm Hồ Chí Minh tìm ra phương thức lãnh đạo thích hợp với từng thời kỳ. Văn kiện Đại hội IX chỉ rõ đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng với Nhà nước và xã hội là một nội dung trọng yếu nhằm qua cách mạng nước ta phát triển, trong đó: nhấn mạnh lãnh đạo thông qua việc "đề ra đường lối, chủ trương, các chính sách lớn định hướng cho sự phát triển và kiểm tra việc tổ chức thực hiện đường lối, chủ trương của Đảng và Hiến pháp, pháp luật của Nhà nước” (4) . “Kiện toàn hệ thống tổ chức đảng gắn với cải cách đổi mới tổ chức, bộ máy của các cơ quan nhà nước và các đoàn thể chính trị - xã hội" (5) .
Một chức năng rất quan trọng của Đảng cầm quyền là lãnh đạo mặt trận và các tổ chức chính trị - xã hội. Sự nghiệp cách mạng không phải là sự nghiệp của vài người, của vài cá nhân anh hùng nào mà là sự nghiệp của toàn dân, có tổ chức được tập hợp trong mặt trận. Tổ chức mặt trận là tổ chức liên minh chính trị, là tổ chức tự nguyện của các đoàn thể, các cá nhân tiêu biểu trong các giai cấp và tầng lớp xã hội, các dân tộc, các tôn giáo. Năm 1939, Hồ Chí Minh cho rằng, “Đảng không thể đòi hỏi Mặt trận thừa nhận quyền lãnh đạo của mình, mà phải tỏ ra là một bộ phận trung thành nhất, hoạt động nhất và chân thực nhất. Chỉ trong đấu tranh và công tác hằng ngày, khi quần chúng rộng rãi thừa nhận chính sách đúng đắn và năng lực lãnh đạo của Đảng, thì Đảng mới giành được địa vị lãnh đạo" (6) .
Trong điều kiện Đảng cầm quyền, theo quan điểm của Hồ Chí Minh thì với tư cách là tổ chức chính trị cầm quyền, Đảng Cộng sản Việt Nam nêu ra đường lối, chủ trương và vận dụng thuyết phục các tổ chức đoàn thể chính trị - xã hội tham gia các phong trào cách mạng biến chủ trương, đường lối thành hiện thực.
3. Tăng cường mối quan hệ gắn bó giữa Đảng và dân trong điều kiện Đảng cầm quyền
Quyền lực của Đảng không tự nhiên mà có. Quyền lực ấy là của nhân dân; nhân dân ủy thác cho Đảng đứng ra lãnh đạo sự nghiệp cách mạng, đưa đất nước đi lên chủ nghĩa xã hội, đạt mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Cơ sở xã hội của Đảng không chỉ là giai cấp công nhân mà còn là toàn thể nhân dân lao động. Trong giai đoạn cầm quyền, các tổ chức đảng đóng vai trò lãnh đạo một cách toàn diện; cán bộ, đảng viên thường giữ chức vụ trong Đảng hoặc trong các tổ chức khác của hệ thống chính trị. Hồ Chí Minh thường nhắc nhở các tổ chức Đảng, cán bộ, đảng viên chớ xa dân, chớ “vác mặt quan cách mạng” để làm hại dân.
Trong quan hệ với dân ở giai đoạn cầm quyền, theo Hồ Chí Minh, Đảng ta phải chú ý những vấn đề sau đây:
- Phải luôn luôn lắng nghe ý kiến nhân dân, khiêm tốn học hỏi nhân dân, phát huy quyền làm chủ của nhân dân để xây dựng chế độ mới. Hồ Chí Minh đánh giá rất cao vai trò, sức mạnh của nhân dân nói chung và trong thời kỳ xây dựng chủ nghĩa xã hội nói riêng. Đảng cầm quyền phải thường xuyên lấy nguồn gốc sức mạnh từ nhân dân.
- Thường xuyên vận động nhân dân tham gia xây dựng Đảng. Đây là đòi hỏi sống còn của công tác xây dựng Đảng trong điều kiện xây dựng đất nước. Hồ Chí Minh lưu ý việc vận động nhân dân tham gia xây dựng Đảng bằng nhiều hình thức: đóng góp ý kiến cho Đảng, nhất là trong việc xây dựng đường lối, chủ trương của Đảng; tích cực thực hiện đường lối chủ trương đó trong cuộc sống; kiểm tra cán bộ đảng viên; giới thiệu những người ưu tú để Đảng kết nạp vào hàng ngũ của mình,...
- Nâng cao dân trí. Trong giai đoạn Đảng cầm quyền, Đảng không thể gọi là Đảng của trí tuệ khi nền dân trí thấp. Theo Hồ Chí Minh, một dân tộc dốt là một dân tộc yếu, dốt là một thứ giặc nguy hiểm cần phải chống. Vì vậy, việc nâng cao dân trí là trách nhiệm của Đảng.
- Đảng không được theo đuôi quần chúng. Đảng phải thường xuyên tuyên truyền giác ngộ quần chúng, làm cho dân dân giác ngộ cách mạng sẵn sàng đem sức mình thực hiện đường lối, chủ trương của Đảng.
- Đảng phải xác định rõ trách nhiệm của mình: vừa là người lãnh đạo, vừa là người đầy tớ thật trung thành của nhân dân.
II- TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ XÂY DỰNG ĐẢNG TRONG SẠCH VỮNG MẠNH
1. Đảng lấy chủ nghĩa Mác - Lênin làm nền tảng tư tưởng và kim chỉ nam cho hành động
Mục tiêu của cách mạng Việt Nam mà Hồ Chí Minh cùng toàn Đảng lãnh đạo nhân dân ta phấn đấu để đạt tới là chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản. Trên con đường để đạt mục tiêu đó, Hồ Chí Minh chỉ rõ, Đảng phải dựa vào lý luận cách mạng và khoa học của chủ nghĩa Mác - Lênin. Nhiệm vụ chủ yếu của Đảng Cộng sản cầm quyền là lãnh tạo toàn thể nhân dân xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội. Học thuyết Mác - Lênin về chủ nghĩa xã hội khoa học chính là sự định hướng cho cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam.
Hồ Chí Minh luôn luôn nhấn mạnh việc Đảng Cộng sản Việt Nam phải lấy chủ nghĩa Mác - Lênin làm nền tảng tư tưởng và kim chỉ nam cho hành động.
Ở Hồ Chí Minh, việc tiếp thu và vận dụng chủ nghĩa Mác - Lênin nói chung và trong giai đoạn xây dựng chủ nghĩa xã hội nói riêng, rất sáng tạo. Đó cũng là điều mà Hồ Chí Minh thường xuyên đòi hỏi Đảng ta trong quá trình lãnh đạo nhân dân tiến hành sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa. Hồ Chí Minh tuân thủ sự chỉ dẫn của các vị sáng lập ra chủ nghĩa cộng sản khoa học, rằng học thuyết của các ông không phải là giáo điều mà là kim chỉ nam cho hành động. Lênin khẳng định: “Chúng ta không hề coi lý luận của Mác như một cái gì đã xong xuôi hẳn và bất khả xâm phạm; trái lại chúng ta tin rằng lý luận đó chỉ đặt nền móng cho môn khoa học mà những người xã hội chủ nghĩa cần phải phát triển hơn nữa về mọi mặt, nếu họ không muốn trở thành lạc hậu đối với cuộc sống. Chúng tôi nghĩ rằng, những người xã hội chủ nghĩa ở Nga đặc biệt cần phải tự mình phát triển hơn nữa lý luận của Mác, vì lý luận này chỉ đề ra những nguyên lý chỉ đạo chung, còn việc áp dụng những nguyên lý ấy thì xét riêng từng nơi, ở Anh không giống ở Pháp, ở Pháp không giống ở Đức, ở Đức không giống ở Nga" (7) .
Hồ Chí Minh lưu ý công tác tuyên truyền, giáo dục chủ nghĩa Mác - Lênin phải phù hợp với đối tượng, với hoàn cảnh, vận dụng tránh giáo điều đồng thời tránh việc tuyệt đối hoá đặc điểm của từng dân tộc để xa rời các nguyên tắc cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lênin. Đảng Cộng sản Việt Nam là một thành viên của phong trào cộng sản và công nhân quốc tế, cho nên việc cần thiết là học tập những kinh nghiệm tốt, những bài học hay, của các đảng cộng sản anh em, tránh những sai lầm, khuyết điểm mà các đảng đã mắc phải. Hồ Chí Minh cũng rất coi trọng việc Đảng ta phải thường xuyên tổng kết kinh nghiệm hoạt động của mình để bổ sung, làm phong phú thêm kho tàng lý luận Mác - Lênin, đấu tranh dưới nhiều hình thức để bảo vệ, làm trong sáng chủ nghĩa Mác - Lênin, chống giáo điều, cơ hội, xét lại và mọi biểu hiện xuyên tạc chủ nghĩa Mác - Lênin.
Thực tế trong thời gian qua đã chứng minh rằng, cả hai loại sai lầm: giáo điều và xa rời những nguyên lý của chủ nghĩa Mác - Lênin đều dẫn tới sự tan rã của nhiều đảng cầm quyền, ngay cả đối với Đảng Cộng sản Liên Xô - một đảng do Lênin sáng lập, có nhiều kinh nghiệm trong hơn 70 năm cầm quyền.
Không phải cứ nói nhiều, học thuộc, coi lý luận Mác - Lênin như là những công thức, như những “kinh thánh” thì mới là trung thành với học thuyết của các ông. Không phải cứ nói khác C.Mác, Ph.Ăngghen, Lênin là sáng tạo. Cũng không thể cứ "lắp ghép" nguyên lý của các nhà sáng lập ra chủ nghĩa cộng sản khoa học với cái mới hiện nay là có ngay sự kế thừa sáng tạo và nâng lý luận của các ông lên một tầm cao mới.
Sự nghiệp đổi mới vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh theo tư tưởng Hồ Chí Minh đòi hỏi đảng ta phải kiên trì chủ nghĩa Mác - Lênin, vận dụng sáng tạo chủ nghĩa ấy vào điều kiện cụ thể của Việt Nam. Mọi biểu hiện từ bỏ học thuyết cách mạng và khoa học này đều chỉ dẫn đến sự thất bại đối với sự nghiệp cách mạng nước ta và làm cho Đảng biến chất, không còn là Đảng Cộng sản nữa.
2. Thực hiện các nguyên tắc tổ chức và sinh hoạt Đảng
Đảng Cộng sản Việt Nam là một tổ chức chặt chẽ cao nhất của giai cấp công nhân. Vì vậy, Đảng phải tuân thủ những nguyên tắc tổ chức và sinh hoạt nhất định mà nếu vi phạm thì Đảng sẽ bị suy yếu và tan rã. Trong công tác xây dựng Đảng nói chung, xây dựng Đảng trong điều kiện Đảng cầm quyền nói riêng, Hồ Chí Minh đề cập nhiều nguyên tắc. Những nguyên tắc đó đều xuất phát từ học thuyết Mác - Lênin về xây dựng đảng kiểu mới của giai cấp vô sản. Trong phạm vi của chương trình lý luận cao cấp, xin đề cập ba nguyên tắc.
Một là, tập trung dân chủ.
Trong học thuyết của Lênin về Đảng kiểu mới của giai cấp vô sản, nguyên tắc tập trung dân chủ là một trong những nguyên tắc cơ bản. Hồ Chí Minh đặc biệt nhấn mạnh nguyên tắc này và chỉ rõ tập trung và dân chủ gắn bó chặt chẽ với nhau. Mối quan hệ đó được Hồ Chí Minh diễn đạt bằng các vế sau đây:
- “Tập trung trên nền tảng dân chủ” (8) .
- “Dân chủ dưới sự chỉ đạo tập trung” (9) .
Như vậy, chúng ta không được tách rời và càng không được đối lập hai vế của một nguyên tắc, không thể coi “tập trung” và “dân chủ” như lửa với nước như một số phần tử chống phá sự nghiệp cách mạng nước ta rêu rao.
Hồ Chí Minh xác định dân chủ là tạo mọi điều kiện cho tất cả đảng viên bày tỏ hết ý kiến để đóng góp cho Đảng. Người nhấn mạnh: “Phải thật sự mở rộng dân chủ để tất cả nhân viên bày tỏ hết ý kiến của mình; phải gom góp ý kiến của đảng viên để giúp đỡ Trung ương chuẩn bị Đại hội Đảng cho thật tốt” (10) .
Tập trung trong Đảng phải trên cơ sở của bảo đảm dân chủ, nghĩa là dân chủ càng tốt thì tập trung sẽ đúng hơn. Hồ Chí Minh quan niệm tập trung trong tổ chức và sinh hoạt Đảng theo đúng nguyên lý xây dựng Đảng của Lênin: thiểu số phục tùng đa số, cấp dưới phục tùng cấp trên, toàn Đảng phục tùng Trung ương,... Người nhấn mạnh: “Đảng ta tuy nhiều người, nhưng khi tiến đánh thì chỉ như một người” (11) . Tập trung trong Đảng cũng có nghĩa là tất cả mọi Đảng viên phải tuyệt đối phục tùng nghị quyết của Đảng.
Hai là, nguyên tắc tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách.
Có lúc nguyên tắc này được Hồ Chí Minh gọi là “chế độ”. Theo Hồ Chí Minh “tập thể lãnh đạo là dân chủ, cá nhân phụ trách là tập trung. Tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ cách tức là dân chủ tập trung” (12) .
Hồ Chí Minh cũng nhấn mạnh giữa tập thể lãnh đạo và cá nhân phụ trách phủ gắn chặt với nhau. Nguyên tắc này vừa chống lại bệnh độc đoán chuyên quyền, vừa chống lại sự dựa dẫm tập thể, không dám quyết đoán, không dám chịu trách nhiệm. Độc đoán chuyên quyền là vi phạm dân chủ trong Đảng, dẫn đến những hậu quả khôn lường, phá hoại Đảng, đồng thời không dám chịu trách nhiệm sẽ làm tổ chức Đảng bị tê liệt, không còn sức chiến đấu, làm cho đường lối, chủ trương, nghị quyết của tổ chức Đảng chỉ nằm trên giấy, không biến thành hiện thực trong cuộc sống.
Hồ Chí Minh giải thích tập thể lãnh đạo như sau:
“Vì sao cần phải có tập thể lãnh đạo?
Vì một người dù khôn ngoan tài giỏi mấy, dù nhiều kinh nghiệm đến đâu, cũng chỉ trông thấy, chỉ xem xét được một hoặc nhiều mặt của một vấn đề, không thể trông thấy và xem xét tất cả mọi mặt của một vấn đề.
Vì vậy, cần phải có nhiều người. Nhiều người thì nhiều kinh nghiệm. Người thì thấy rõ mặt này, người thì trông thấy rõ mặt khác của vấn đề đó.
Góp kinh nghiệm và sự xem xét của nhiều người, thì vấn đề đó được thấy rõ khắp mọi mặt. Mà có thấy rõ khắp mọi mặt, thì vấn đề ấy mới được giải quyết chu đáo, khỏi sai lầm.
Ý nghĩa của tập thể lãnh đạo rất giản đơn, chân lý của nó rất rõ rệt. Tục ngữ có câu: “Khôn bầy hơn khôn độc" là nghĩa đó (13) .
Hồ Chí Minh giải thích về cá nhân phụ trách như sau:
"Vì sao cần phải cá nhân phụ trách?
Việc gì đã được đông người bàn bạc kỹ lưỡng rồi, kế hoạch định rõ ràng rồi, thì cần phải giao cho một người hoặc một nhóm ít người phụ trách theo kế hoạch đó mà thi hành. Như thế mới có chuyên trách, công việc mới chạy.
Nếu không có cá nhân phụ trách, thì sẽ sinh cái tệ người này ủy cho người kia, người kia ủy cho người nọ, quả là không ai thi hành. Như thế thì việc gì cũng không xong. Tục ngữ có câu: “Nhiều sãi không ai đóng cửa chùa" là như thế (14) .
Theo Hồ Chí Minh, trong công tác xây dựng Đảng, không được phép vin vào “cá nhân phụ trách” để lấn át tập thể hoặc không phải việc gì nhỏ nhặt, vụn vặt, một người một lần có thể giải quyết được cũng đưa ra bàn. Nguyên tắc này, càng có ý nghĩa trong thời kỳ hiện nay, khi đất nước bước vào thời kỳ đổi mới, hình thành cơ chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, khi công tác xây dựng Đảng được coi là then chốt, xây dựng kinh tế là trung tâm, khi trách nhiệm của cá nhân và của tập thể tổ chức Đảng được phát huy tác dụng rõ rệt hơn bao giờ hết.
Ba là, nguyên tắc tự phê bình và phê bình
Hồ Chí Minh có nhiều cách gọi về tự phê bình và phê bình. Có lúc Người đặt phê bình lên trước tự phê bình, nhưng nhiều hơn cả là tự phê bình đặt trước phê bình. Có lúc Người gọi tự phê bình và phê bình là “luật” hoặc “quy luật phát triển” của Đảng, là “vũ khí sắc bén” trong công tác xây dựng Đảng. Xét về nội dung, chúng ta có thể coi vấn đề này có tính nguyên tắc trong công tác xây dựng Đảng nói chung và trong giai đoạn Đảng cầm quyền nói riêng.
Tại sao trong Đảng lại phải thường xuyên tự phê bình và phê bình? Hồ Chí Minh chỉ rõ, Đảng ta bao gồm đủ các tầng lớp xã hội, có nhiều tính cách rất trung thành, rất kiên quyết, rất vĩ đại, song trong Đảng ta cũng không tránh khỏi những tập tục, những tính nết, những khuyết điểm của xã hội bên ngoài lây ngấm vào Đảng. Đảng ta gồm những người có đức, có tài. Phần đông những người hăng hái nhất, thông minh nhất, yêu nước nhất, kiên quyết dũng cảm nhất đều ở trong Đảng ta. Tuy vậy, không phải là người người đều tốt, việc việc đều hay. Hồ Chí Minh còn cho rằng, người đời không phải thánh thần, không ai tránh khỏi khuyết điểm; mỗi con người đều có cái thiện với cái ác ở trong lòng. Do vậy, mục đích tự phê bình và phê bình là để làm cho phần tốt trong mỗi con người nảy nở như hoa mùa xuân, phần xấu bị mất dần đi, thang thuốc hay nhất là thiết thực tự phê bình và phê bình. Phải thường xuyên tự phê bình và phê bình như người ta rửa mặt hàng ngày.
Hồ Chí Minh rất quan tâm đến thái độ tự phê bình và phê bình. Người đòi hỏi, tự phê bình và phê bình phải thẳng thắn, chân thành, nghĩa là không nể nang, không thêm bớt, “không giấu bệnh sợ thuốc". Đồng thời, phải “có tính đồng chí thương yêu lẫn nhau”. Tự phê bình và phê bình trên tình đồng chí, cốt để giúp nhau sửa chữa khuyết điểm chứ không phải để xoi mói, nói xấu nhau, “không phải đập cho tơi bời". Với thái độ tự phê bình và phê bình như vậy, mỗi cán bộ, đảng viên và tổ chức Đảng mới luôn luôn trong sạch vững mạnh hơn.
3. Xây dựng và rèn luyện đội ngũ đảng viên trong điều kiện Đảng cầm quyền
Đội ngũ đảng viên trong điều kiện Đảng cầm quyền có mặt ở tất cả các tổ chức của hệ thống chính trị và thường là có chức, có quyền. Hồ Chí Minh rất coi trọng việc xây dựng và rèn luyện đội ngũ đảng viên trong sự nghiệp xây dựng xã hội mới trên những vấn đề cơ bản sau đây:
Một là, thường xuyên lựa chọn người ưu tú để kết nạp vào đội ngũ của Đảng. bảo đảm đội ngũ đảng viên trong sạch, vững mạnh. Trong việc kết nạp đảng viên, coi trọng chất lượng hơn số lượng, khắc phục tình trạng chủ nghĩa thành phần.
Hai là, đội ngũ đảng viên phải luôn luôn giác ngộ cách mạng, tiền phong, gương mẫu, đi đầu trong mọi công tác. Hồ Chí Minh nhiều lần cho rằng: “Đảng viên đi trước, làng nước theo sau”, “tiên thiên hạ chi ưu nhi ưu, hậu thiên hạ chi lạc nhi lạ”. Phải luôn luôn có “đảng tính”, tức là đảng viên hoạt động trong các tổ chức của chính quyền Nhà nước và các đoàn thể chính trị - xã hội phải thật sự gương mẫu để thực hiện đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước.
Ba là, đội ngũ đảng viên là những người suốt đời phấn đấu hy sinh cho sự nghiệp của Đảng và Tổ quốc, đặt quyền lợi của Đảng, của Tổ quốc lên trên hết và trước hết. Trong điều kiện Đảng cầm quyền, nhiệm vụ chủ yếu của Đảng lãnh đạo nhân dân xây dựng xã hội mới: xã hội xã hội chủ nghĩa, vấn đề hy sinh tính mạng không đặt ra thường xuyên nhưng lợi ích kinh tế đặt ra không kém phần gay gắt, vẫn đòi hỏi đảng viên phải hy sinh lợi ích riêng cho lợi ích của Đảng.
Bốn là, đảng viên phải có đời tư trong sáng, tức là đề cập đến đạo đức, lối sống, điều mà Hồ Chí Minh thường xuyên nhắc nhở.
4. Xây dựng đội ngũ cán bộ
“Cán bộ” ở đây được quan niệm là cán bộ cách mạng trong điều kiện Đảng cầm quyền, mà thường số đông cán bộ là đảng viên. Hồ Chí Minh đánh giá rất cao vị trí, vai trò của đội ngũ cán bộ, cho rằng: cán bộ là cái gốc của mọi công việc, muôn việc thành công hay thất bại đều do cán bộ tốt hay kém.
Những yêu cầu đối với cán bộ cách mạng được Hồ Chi Minh chỉ ra một cách cụ thể, tập trung trên những vấn đề chính sau đây:
- Cán bộ phải là người tuyệt đối trung thành với Đảng, với sự nghiệp cách mạng, không phải làm cán bộ để “thăng quan phát tài”, để làm “quan cách mạng”, mà để là người lãnh đạo, người đầy tớ thật trung thành của nhân dân.
- Người cán bộ trước hết phải có "đức". Phải vừa có đức vừa có tài nhưng đức là gốc. “Đức” ở đây là sự tổng hợp của rất nhiều yếu tố, nhưng Hồ Chí Minh nhấn mạnh người cán bộ phải là người không vi phạm khuyết điểm tham ô, lãng phí, quan liêu mà Người gọi những khuyết điểm đó là “giặc nội xâm”, loại giặc này còn nguy hiểm hơn giặc ngoại xâm. Người cán bộ, theo Hồ Chí Minh, phải là những người “phú quý bất năng dâm, bần tiện bất năng di, uy vũ bất năng khuất” .
- Cán bộ là người có năng lực tổ chức triển khai thực hiện đường lối, chủ trương, nghị quyết, chính sách của Đảng và Nhà nước. Hồ Chí Minh coi người cán bộ là dây chuyền của bộ máy. Đường lối, chủ trương, nghị quyết, chính sách của Đảng và Nhà nước cũng như của các đoàn thể chính trị - xã hội sẽ không biến thành hiện thực, sẽ chỉ nằm trên giấy khi không có những cán bộ có năng lực tổ chức triển khai thực hiên nó.
- Cán bộ trong giai đoạn Đảng cầm quyền càng phải liên hệ mật thiết với nhân dân. Hồ Chí Minh phê phán nhiều cán bộ “vác mặt quan cách mệnh" để “đè đầu cưỡi cổ nhân dân”, “dán trên trán hai chữ cộng sản" để loè dân.
- Cán bộ phải là người luôn luôn học tập để nâng cao trình độ về mọi mặt: về lý luận Mác - Lênin, về nhận thức đường lối của Đảng, Hiến pháp và pháp luật của Nhà nước và chuyên môn nghiệp vụ. Việc học tập được Hồ Chí Minh nhấn mạnh là công việc thường xuyên, học mọi lúc mọi nơi, cả trên ghế nhà trường, tự học, học trong thực tế.
- Cán bộ phải có phong cách công tác tốt, chống bệnh liêu, đại khái, phô trương hình thức cho oai, kiểu cách làm việc bàn giấy, “chỉ tay năm ngón”. Người cán bộ, theo Hồ Chí Minh, phải là người mắt trông, tai nghe, chân đi, miệng nói, tay làm, sâu sát, tỷ mỷ, kế hoạch thiết thực, kế hoạch chớ để cho oai, kế hoạch 10 phần biện pháp phải 20 phần, quyết tâm phải 30 phần. Hồ Chí Minh đòi hỏi người cán bộ phải năng động, sáng tạo chớ “đập đi, họ đứng", đừng để "đầy túi quần thông báo, đầy túi áo chỉ thị” mà công việc không tiến triển được.
Để có được đội ngũ cán bộ đáp ứng yêu cầu của một Đảng cầm quyền, Hồ Chí Minh quan tâm sâu sắc tới công tác cán bộ. Quan điểm của Hồ Chí Minh về công tác cán bộ được thể hiện trên những vấn đề cơ bản sau đây:
Một là, phải "hiểu và đánh giá đúng cán bộ". Đây là yêu cầu đầu tiên cần phải có đế tiến hành các công tác khác. Làm tốt yêu cầu này đòi hỏi phải công tâm, khách quan, có tiêu chí đánh giá phù hợp với điều kiện, hoàn cảnh cụ thể của từng thời kỳ, từng cấp, từng ngành, từng địa phương.
Hai là, phải "khéo dùng cán bộ", tức là bố trí cán bộ cho phù hợp để người cán bộ phát huy hết khả năng của mình. Hồ Chí Minh cho rằng: người đời ai cũng có chỗ hay chỗ dở, ta phải dùng chỗ hay và giúp họ sửa chữa chỗ dở. Dùng người như dùng gỗ, người thợ khéo thì gỗ to, nhỏ, thẳng, cong đều tùy chỗ mà dùng được. Hồ Chí Minh phê bình: “Thường chúng ta không biết tùy tài mà dùng người. Thí dụ: thợ rèn thì bảo đi đóng tủ, thợ mộc thì bảo đi rèn dao. Thành thử hai người đều lúng túng. Nếu biết tùy tài mà dùng người thì hai người đều thành công” (15) .
Khéo dùng cán bộ còn phải biết kết hợp cán bộ già, cán bộ trẻ, cán bộ tại chỗ với cán bộ do cấp trên điều về. Hồ Chí Minh đã phân tích rất rõ ưu điểm và nhược điểm của các loại cán bộ đó để sử dụng tốt.
Khéo dùng cán bộ, theo Hồ Chí Minh, còn phải chú ý đề bạt, sử dụng người tốt, chớ dùng người hay nịnh hót mình mà bỏ những người chính trực.
Ba là, Hồ Chí Minh nhấn mạnh phải chống chủ nghĩa địa phương cục bộ trong công tác cán bộ, tránh đầu óc bè phái, cánh hẩu, họ hàng. Vấn đề này càng cần phải chú ý trong điều kiện Đảng cầm quyền.
Bốn là, phải chú ý phát hiện, đào tạo, bồi dưỡng, huấn luyện và đề bạt cán bộ. Các công việc này là những khâu liên hoàn nhưng khi đã đề bạt rồi thì phải kiểm tra, giám sát để giúp cán bộ phát huy ưu điểm, sửa chữa khuyết điểm chứ không khoán trắng công việc cho họ.
5. Tăng cường công tác kiểm tra trong quá trình lãnh đạo sự nghiệp cách mạng
Hồ Chí Minh coi trọng công tác kiểm tra trong xây dựng Đảng. Người cho rằng: khi đã có chính sách đúng, thì sự thành công hoặc thất bại của chính sách đó là do nơi tổ chức công việc, nơi lựa chọn cán bộ và do nơi kiểm tra, nếu ba điều ấy sơ sài thì chính sách đúng mấy cũng vô ích.
Có tăng cường kiểm tra thì mới giữ nghiêm kỷ luật Đảng, mới bảo đảm cho đường lối, chủ trương, nghị quyết của Đảng được thực hiện một cách đầy đủ và đúng đắn, mới bảo đảm sự lãnh đạo của Đảng đối với xã hội. Có kiểm tra mới huy động được tinh thần tích cực và lực lượng to lớn của nhân dân, mới biết rõ năng lực và khuyết điểm của cán bộ, mới sửa chữa và giúp đỡ họ kịp thời. Hồ Chí Minh phê bình nhiều cán bộ lãnh đạo chỉ lo khai hội và thảo nghị quyết, đánh điện và gửi chỉ thị nhưng họ không biết gì đến những nghị quyết đó đã thực hành đến đâu, có những khó khăn trở ngại gì, dân chúng có ra sức tham gia hay không bởi vì họ quên mất kiểm tra. Hồ Chí Minh nhấn mạnh: nếu tổ chức việc kiểm tra chu đáo thì cũng như chúng ta đã có ngọn đèn pha, bao nhiêu tình hình, bao nhiêu ưu điểm, khuyết điểm, bao nhiêu cán bộ chúng ta đều thấy rõ; có thể nói rằng chín phần mười khuyết điểm trong công việc chúng ta là thiếu sự kiểm tra. Hồ Chí Minh cho rằng, nếu tổ chức kiểm tra được tiến hành chu đáo thì công việc của chúng ta nhất định tiến bộ gấp mười, gấp trăm.
Trong công tác kiểm tra, Hồ Chí Minh lưu ý những vấn đề sau đây:
- Công tác kiểm tra phải toàn diện: kiểm tra việc và kiểm tra người trong việc chấp hành Điều lệ, nghị quyết của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước.
- Kiểm tra phải kịp thời, khi đã có nghị quyết, thì phải lập tức đốc thúc sự thực hành nghị quyết ấy, phải biết rõ sự sinh hoạt và cách làm việc của cán bộ và nhân dân địa phương ấy. Có như thế mới kịp thời thấy rõ khuyết điểm và những khó khăn để sửa đổi các khuyết điểm và tìm cách vượt qua mọi khó khăn.
- Kiểm tra phải chính xác, công minh, khách quan. Hồ Chí Minh cho rằng, kiểm tra không nên chỉ bằng việc căn cứ vào các tờ báo cáo mà phải đi đến tận nơi. Ở đây, cần phải nêu cao trách nhiệm của cán bộ làm công tác kiểm tra. Cán bộ kiểm tra phải là những người hiểu rõ đường lối, chủ trương, nghị quyết của Đảng; có năng lực chuyên môn, nghiệp vụ; có đạo đức cách mạng; có ý thức tổ chức và kỷ luật; thật thà tự phê bình và phê bình, gương mẫu trong việc chấp hành kỷ luật Đảng, chính sách, pháp luật Nhà nước, phải chí công vô tư, không thành kiến, thiên vị.
- Công tác kiểm tra đi liền với kỷ luật Đảng. Kỷ luật của Đảng là kỷ luật tự giác, kỷ luật sắt, rất nghiêm, tất cả mọi đảng viên đều phải tuân theo. Tính chất kỷ luật bắt nguồn từ tính chất của Đảng, bởi vì Đảng ta bao gồm những người hăng hái, trung thành, ưu tú trong giai cấp công nhân và nhân dân lao động tự nguyện tự giác đứng vào hàng ngũ của Đảng. Vì vậy, Hồ Chí Minh khuyên mọi người, nếu sợ không phục vụ được nhân dân, phục vụ được cách mạng, sợ kỷ luật sắt của Đảng thì đừng vào Đảng hoặc khoan hãy vào Đảng.
III. VẬN DỤNG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ ĐẢNG VÀO CÔNG CUỘC XÂY DỰNG, CHỈNH ĐỐN ĐẢNG HIỆN NAY
Đại hội IX của Đảng năm 2001 tiếp tục khẳng định: nhiệm vụ then chốt là xây dựng, chỉnh đốn Đảng và nhiệm vụ trung tâm là phát triển kinh tế. Đại hội cũng chỉ ra những ưu điểm và những yếu kém, khuyết điểm của công tác xây dựng Đảng trong những năm qua, đồng thời quyết định những nhiệm vụ mới, trong đó nêu rõ: "Toàn Đảng nghiêm túc học tập chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh. Mỗi cấp ủy mỗi chi bộ có kế hoạch định kỳ kiểm điểm việc thực hiện Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh về nâng cao đạo đức cách mạng chống chủ nghĩa cá nhân. Chống tư tưởng cơ hội, thực dụng” (16) .
Trong những điều kiện mới, nhiệm vụ xây dựng và chỉnh đốn Đảng theo Nghị quyết Đại hội IX cũng như thực hiện Nghị quyết Trung ương 6 (lần 2) khoá VIII càng cấp thiết hơn.
Tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng Đảng Cộng sản Việt Nam có ý nghĩa rất lớn đối với sự nghiệp cách mạng nước ta. Những quan điểm của Người vẫn còn nguyên giá trị trong sự nghiệp đổi mới nói chung, với việc xây dựng chỉnh đốn Đảng nói riêng.
Trước hết, thấm nhuần tư tưởng Hồ Chí Minh phải thể hiện ở việc xây dựng Đảng về chính trị mà biểu hiện rõ nhất là Đảng phải đề ra được đường lối đúng đắn, tổ chức thực hiện thắng lợi đường lối chính trị. Đường lối của Đảng phải dựa trên cơ sở những quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh đồng thời còn dài trên cơ sở thực tiễn của đất nước trong từng thời kỳ và đường lối đó phải có khả năng thực thi. Hơn bao giờ hết trong sự nghiệp đổi mới, chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh càng phải được nhận thức một cách sâu sắc để vận dụng sáng tạo vào hoàn cảnh cụ thể của nước ta hiện nay. Tình hình thực tế thật vô cùng phong phú, nhất là trong cơ chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, đòi hỏi Đảng phải luôn luôn tổng kết để hoạch định đường lối một cách đúng đắn. Sai lầm về đường lối là một sai lần nguy hiểm nhất đối với một Đảng cộng sản cầm quyền.
Thứ hai, sức mạnh của một đảng chính trị và của Đảng Cộng sản Việt Nam cầm quyền còn ở lĩnh vực tư tưởng. Vì thế, xây dựng Đảng ta về tư tưởng vẫn luôn luôn là vấn đề cấp thiết đặt ra. Đảng ta phải là một khối thống nhất về tư tưởng và hành động. Toàn Đảng, từ Trung ương đến cơ sở, mọi cán bộ, đảng viên phải kiên định lập trường, không hoang mang, dao động, phải kiên trì mục tiêu và lý tưởng của mình. Là người cộng sản, là lãnh tụ của Đảng ta, trải qua nhiều cam go, thử thách nghiệt ngã, Hồ Chí Minh đã dày công giáo dục, rèn luyện cho mỗi đảng viên và toàn Đảng thấm nhuần lý tưởng cộng sản chủ nghĩa. Hiện nay, đứng trước thời cơ và thách thức mới, Đảng cần tiếp tục nên định lập trường nhằm nâng cao tinh thần trách nhiệm lãnh đạo đất nước thực hiện thành công xây dựng chủ nghĩa xã hội đáp ứng lòng mong mỏi của Chủ tịch Hồ Chí Minh.
Thứ ba, Đảng mạnh là do tổ chức mạnh. Xây dựng Đảng ta vững mạnh, xứng đáng là đội tiên phong của giai cấp công nhân, đại diện trung thành cho lợi ích của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và toàn dân tộc đòi hỏi phải tuân thủ những nguyên tắc tổ chức và sinh hoạt Đảng. Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh trong xây dựng, chỉnh đốn đảng hiện nay còn yêu cầu Đảng phải lãnh đạo cuộc đấu tranh đề phòng và khắc phục những nguy cơ của Đảng cầm quyền: quan liêu, tham nhũng…; xây dựng đội ngũ cán bộ, đảng viên thật sự vừa là người lãnh đạo, vừa là người đầy tớ thật trung thành của nhân dân. Đảng phải đổi mới phương thức lãnh đạo của mình đối với Nhà nước và các đoàn thể để vừa bảo đảm được sự lãnh đạo của Đảng cầm quyền trong hệ thống chính trị, vừa phát huy được vai trò quản lý của Nhà nước, quyền làm chủ của nhân dân.
Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh vào công cuộc xây dựng, chỉnh đốn Đảng còn phải, bằng hành động thực tế, thể hiện vai trò cực kỳ quan trọng của Đảng trong đời sống xã hội như chính bản thân Hồ Chí Minh đã xác định một cách nhất quán trong cả cuộc đời hoạt động của mình. Càng trong cơ chế thị trường, càng cần tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, bởi vì sự lãnh đạo đúng đắn cua Đảng là nhân tố quyết định cho thắng lợi của cách mạng Việt Nam. Cần gắn bó chặt chẽ hơn nữa công tác xây dựng đảng với việc phát triển kinh tế theo quan điểm phát triển kinh tế là nhiệm vụ trung tâm, xây dựng Đảng là nhiệm vụ then chốt.
Hồ Chí Minh là một trong những người tham gia sáng lập Đảng Cộng sản Pháp, là người sáng lập Đảng Cộng sản Việt Nam đầu năm 1930, là lãnh tụ của Đảng và của dân tộc. Tư tưởng của Người về xây dựng Đảng vẫn là ngọn đèn dẫn dắt Đảng ta trong sự nghiệp đấu tranh cho lý tưởng cộng sản chủ nghĩa.
_______________________
Chú thích:
* Theo Giáo trình Tư tưởng Hồ Chí Minh, Nxb Chính trị - Hành chính, 2011.
(1) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb.Chính trị quốc gia, H.2000, t.12, tr.498.
(2) Hiến pháp Việt Nam, Nxb. Chính trị quốc gia, H. 1995, tr. 330.
(3) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.4, tr.56-57.
(4) Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, Nxb. Chính trị quốc gia, H. 2001, tr.144, 155.
(5) Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, Sđd, tr.155.
(6) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.4, tr.56-57.
(7) V.I. Lênin: Toàn tập , Nxb. Tiến bộ, M. 1974, t.4, tr.232.
(8) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.7, tr.240.
(9) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, tr. 241.
(10) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.10, tr.118.
(11) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.5, tr.553, 505.
(12) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.5, tr.505.
(13) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.5, tr.504.
(14) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.5, tr.504-505.
(15) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.5, tr.274.
(16) Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, Sđd, tr.139.