Chủ tịch Hồ Chí Minh với các đại biểu dự Đại hội đại biểu những người
Công giáo yêu tổ quốc, yêu hòa bình, tháng 3/1955. Ảnh tư liệu
1.Tư tưởng Hồ Chí Minh về công tác tôn giáo
Việt Nam là một Quốc gia có lịch sử hình thành và phát triển lâu dài với đặc điểm có nhiều dân tộc cùng chung sống, nhiều tôn giáo cùng tồn tại. Năm 1858, tại bán đảo Sơn Trà, Đà Nẵng, thực dân Pháp đã nổ súng xâm lược Việt Nam. Sau khi dập tắt được các phong trào yêu nước của nhân dân ta, chúng đã từng bước thiết lập bộ máy cai trị. Dựa trên cơ sở về địa lý, dân tộc, tôn giáo chúng thực hiện chính sách chia để trị với mục đích là gây chia rẽ, thù hằn dân tộc nhằm phá vỡ sức mạnh của khối đại đoàn kết dân tộc, làm cho dân tộc ta không đủ sức chống lại chúng. Nhận thức được điều này, ngay từ đầu Chủ tịch Hồ Chí Minh đã tiếp thu, vận dụng chủ nghĩa Mác-Lênin về tôn giáo một cách sáng tạo, hình thành nên tư tưởng về công tác tôn giáo phù hợp với điều kiện cụ thể ở Việt Nam, góp phần bổ sung và làm phong phú thêm kho tàng lý luận chủ nghĩa Mác-Lênin. Là một người yêu nước, với mục tiêu độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội, giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, hướng tới giải phóng con người. Vì vậy, công tác tôn giáo ở Việt Nam cũng không ngoại lệ mà phải hướng theo mục tiêu trung tâm là độc lập, tự do cho dân tộc, hạnh phúc cho nhân dân. Tư tưởng Hồ Chí Minh về tôn giáo có thể khái quát thành một số nội dung chính như sau:
Tôn trọng và đảm bảo quyền tự do, tín ngưỡng của nhân dân.
Ngay từ rất sớm, Hồ Chí Minh đã tiếp thu tư tưởng dân chủ tiến bộ của phương Tây, trong các quyền đó có quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo. Từ những quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo và không tín ngưỡng, tôn giáo, Hồ Chí Minh đã hình thành nên quan điểm về công tác tôn giáo. Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn gắn liền lý luận với thực tiễn về công tác tôn giáo trong hoạt động cách mạng, nguyên tắc nền tảng này được Đảng và Nhà nước ta áp dụng xuyên suốt từ trước đến nay.
Ngày 3/9/1945, trong phiên họp đầu tiên của Hội đồng Chính phủ lâm thời, Hồ Chí Minh đã phát biểu: “Tôi đề nghị Chính phủ ta tuyên bố: tín ngưỡng tự do và lương giáo đoàn kết” [3, tr.9]. Hiến pháp năm 1946 của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa do Người chỉ đạo biên soạn khẳng định: “Nhân dân có quyền tự do tín ngưỡng”. Chính cương của Mặt trận Liên Việt, ở điểm 1 điều thứ 7 khẳng định: “tôn trọng quyền tự do tín ngưỡng, tự do thờ cúng của mọi người”. Điều 8 trong Chính cương của Đảng Lao động Việt Nam, cũng khẳng định: “tôn trọng và bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng của mọi người dân”. Qua những đó chứng minh, Hồ Chí Minh tôn trọng quyền tự do tôn giáo của nhân dân.
Năm 1951, để chống lại luận điệu cộng sản là vô gia đình, vô đạo và vô Tổ quốc, thậm chí cho rằng Việt cộng diệt đạo của kẻ địch, trong buổi kết thúc lễ ra mắt của Đảng lao động Việt Nam, Người chỉ rõ: “chúng tôi xin nói rõ để tránh mọi sự có thể hiểu lầm:…Vấn đề tôn giáo, thì Đảng Lao động Việt Nam hoàn toàn tôn trọng quyền tự do tín ngưỡng của mọi người” [8, tr.184].
Sau khi hòa bình được lập lại ở miền Bắc, ngày 14/6/1955, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ký Sắc lệnh 234/SL về vấn đề tôn giáo gồm 5 chương và 16 điều. Sắc lệnh đã thể hiện rất rõ, chi tiết, cụ thể về quyền tự do tín ngưỡng tôn giáo của nhân dân. Sắc lệnh 234/SL của Người đã được đông đảo đồng bào có đạo hoan nghênh và ủng hộ.
Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định mọi người Việt Nam đều: “có quyền tự do tín ngưỡng, theo hoặc không theo một tôn giáo nào” [11, tr.593]. Các nhà tu hành được tự do giảng đạo tại các cơ sở thờ tự. Việc truyền bá tôn giáo phải gắn liền với nhiệm vụ giáo dục cho các tín đồ lòng yêu nước, nghĩa vụ của người công dân, ý thức tôn trọng chính quyền và pháp luật của Nhà nước. Mọi công dân Việt Nam không phân biệt có hay không có tín ngưỡng, tôn giáo đều được hưởng mọi quyền lợi như nhau, kể cả trong ứng cử và bầu cử người vào cơ quan quyền lực cao nhất của Nhà nước. Mọi tín đồ còn phải thực hiện tất cả các nghĩa vụ của người công dân. Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng rất chú trọng đến tín ngưỡng truyền thống ở Việt Nam, đặc biệt là tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên. Người cho rằng: “việc cúng bái tổ tiên hoàn toàn là một hiện tượng xã hội” [4, tr.479]. Bên cạnh tôn trọng quyền tự do tín ngưỡng, Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng không ngừng lên án, kiến quyết trừng trị thật nghiêm bất cứ ai lợi dung tôn giáo để phá hoại sự nghiệp cách mạng của nhân dân. Điều này được khẳng định trong Hiến pháp năm 1946 do Người chỉ đạo soạn thảo đó là: “trong Hiến pháp nước ta đã định rõ: Tín ngưỡng tự do. Nếu ai làm sai Hiến pháp, …sẽ bị trừng phạt” [41, tr.44]. Người nhấn mạnh: “bảo vệ tự do tín ngưỡng, nhưng kiên quyết trừng trị những kẻ đội lốt tôn giáo để phản Chúa, phản nước” [5, tr.56].
Ngoài việc tôn trọng quyền tự do về tín ngưỡng tôn giáo, thấy được những giá trị tốt đẹp của các tôn giáo, Hồ Chí Minh cũng phê phán những mặt hạn chế của tôn giáo như hiện tượng mê tín dị đoan, hủ tục lạc hậu. Từ đó, Hồ Chí Minh đã đề ra một số giải pháp nhằm xóa bỏ các tệ nạn đó là: bài trừ tệ nạn mê tín dị đoan phải đi đôi với việc xây dựng nếp sống văn hóa mới, xây dựng thuần phong, mỹ tục. Việc đấu tranh nhằm khắc phục các biểu hiện tiêu cực của tôn giáo phải thực hiện một cách tế nhị, tránh thô bạo.
Thực hiện đoàn kết lương- giáo, hòa hợp dân tộc.
Đoàn kết lương - giáo nằm trong chiến lược đại đoàn kết dân tộc của Hồ Chí Minh. Với Hồ Chí Minh đoàn kết là một chiến lược lâu dài chứ không phải một thủ đoạn chính trị nhất thời. Lực lượng đoàn kết theo Hồ Chí Minh là “mỗi một người con Rồng cháu Tiên”, đó là mọi tầng lớp nhân dân, không phân biệt dân tộc đa số hay thiểu số, có tín ngưỡng hay không tín ngưỡng, không phân biệt “già, trẻ, gái, trai, giàu nghèo hay quý tiện”.Trong tác phẩm Đường Cách Mệnh, Hồ Chí Minh viết: “Ai là thợ thuyền thì được vào hội, dù tin Phật, tin đạo, tin cộng sản, tin vô chính phủ, tin gì cũng mặc, miễn là làm đúng quy tắc hội là được” [5, tr.303]. Năm 1955, tại Hội nghị đại biểu Mặt trận Liên Việt toàn quốc, Người khẳng định: “Đoàn kết của ta không những rộng rãi, mà còn đoàn kết lâu dài. Đoàn kết là một chính sách dân tộc, không phải là một thủ đoạn chính trị. Ta đoàn kết để đấu tranh cho thống nhất và độc lập của Tổ quốc; ta còn phải đoàn kết để xây dựng nước nhà, ai có tài, có đức, có sức, có lòng phụng sự Tổ quốc và phụng sự nhân dân thì ta phải đoàn kết với họ” [9, tr.438].
Để chống lại luận điệu tuyên truyền xuyên tạc của bọn thực dân Pháp là Thiên Chúa giáo không đội trời chung với cộng sản, cộng sản là kẻ thù của Công giáo, Chủ tịch Hồ Chí Minh là cộng sản, vì vậy người giáo không thể đồng hành với Chính phủ Hồ Chí Minh. Người đã đáp lại bằng lời kêu gọi: “lương giáo đoàn kết, diệt hết kẻ thù”. Lời kêu gọi này đã chứng tỏ một điều rằng: Hồ Chí Minh là Người phân biệt rõ ràng những người công giáo yêu nước với những kẻ mang danh công giáo phản quốc, phản chúa. Vạch trần thủ đoạn lợi dụng tôn giáo của các thế lực phản động để mê hoặc, kích động, chia rẽ, lừa dối nhân dân phục vụ cho chính sách “chia để trị” của chúng. Với chiến lược đoàn kết dân tộc, trong đó đoàn kết lương giáo là một nội dung trọng tâm, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã tập hợp được sức mạnh của khối đại đoàn kết dân tộc rộng rãi, thực hiện thành công cuộc cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân đem lại độc lập cho dân tộc, tiến tới xây dựng một xã hội dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng văn minh.
2.Những quan điểm của Đảng và Nhà Nước về công tác tôn giáo trong thời kỳ đổi mới.
Đường lối đổi mới của Đảng và Nhà nước ta về công tác tôn giáo
Nhận thức được tầm quan trọng của công tác tôn giáo trong sự nghiệp xây dựng đất nước, trong thời kỳ đổi mới Đảng ta luôn quan tâm xây dựng và thực hiện tốt công tác tôn giáo, nhằm củng cố và phát huy sức mạnh đại đoàn kết dân tộc. Đường lối của Đảng về công tác tôn giáo đã được khẳng định, phát triển qua các kỳ Đại hội của Đảng. Đại hội VII (1991), Đại hội VIII (1996), đặc biệt là tại Hội nghị lần thứ 7 của Ban chấp hành Trung ương Đảng khóa IX (12/3/2003) và Ðại hội X (2006) của Đảng luôn khẳng định: tín ngưỡng, tôn giáo là nhu cầu tinh thần của một bộ phận nhân dân. Thi hành nhất quán chính sách tôn trọng quyền tự do tín ngưỡng theo hoặc không theo một tôn giáo nào của công dân. Các tôn giáo đều bình đẳng trước pháp luật. Bảo đảm cho sinh hoạt tôn giáo bình thường theo đúng pháp luật Nhà nước. Khắc phục mọi thái độ hẹp hòi, thành kiến, phân biệt đối xử với đồng bào có đạo, chống những hành động vi phạm tự do tín ngưỡng. Nghiêm cấm và ngăn chặn các hành vi lợi dụng tôn giáo phá hoại độc lập và đoàn kết dân tộc, chống phá chủ nghĩa xã hội, ngăn cản tín đồ làm nghĩa vụ công dân. Đồng thời Nhà nước chăm lo phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội, giúp đỡ đồng bào có đạo xóa đói giảm nghèo, nâng cao đời sống, tham gia các công việc xã hội, từ thiện. Đồng bào theo đạo, các vị chức sắc tôn giáo có nghĩa vụ làm tròn trách nhiệm công dân đối với Tổ quốc, sống “tốt đời, đẹp đạo”.
Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (Bổ sung, phát triển năm 2011), Đảng ta khẳng định: “tôn trọng và bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo và không tín ngưỡng, tôn giáo của nhân dân theo quy định của pháp luật. Đấu tranh và xử lý nghiêm đối với mọi hành động vi phạm tự do tín ngưỡng, tôn giáo và lợi dụng tín ngưỡng, tôn giáo làm tổn hại đến lợi ích của Tổ quốc và nhân dân” [1, tr 81].
Đại hội XII (2016) tiếp tục chủ trương: “Tiếp tục hoàn thiện chính sách, pháp luật về tín ngưỡng, tôn giáo, phát huy những giá trị văn hóa, đạo đức tốt đẹp của các tôn giáo. Quan tâm và tạo điều kiện cho các tổ chức tôn giáo sinh hoạt theo hiến chương, điều lệ của tổ chức tôn giáo đã được Nhà nước công nhận, theo quy định của pháp luật, đóng góp tích cực vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ đất nước. Đồng thời chủ động phòng ngừa, kiên quyết đấu tranh với những hành vi lợi dụng tín ngưỡng, tôn giáo để chia rẽ, phá hoại khối đại đoàn kết dân tộc hoặc những hoạt động tín ngưỡng, tôn giáo trái quy định của pháp luật. (1. Tr 124,125].
Nhìn lại 30 năm đổi mới (1986 – 2016), đất nước ta đã đạt được nhiều kết quả to lớn trên nhiều lĩnh vực của đời sống xã hội, vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế được nâng cao. Ðể đạt được những thành tựu to lớn đó có rất nhiều nguyên nhân, một trong những nguyên nhân quan trọng là sự đóng góp của nhiều đồng bào các tôn giáo đã đoàn kết cùng toàn dân phấn đấu vì mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh” dân tộc.
Chính sách của Đảng và Nhà nước ta về công tác tôn giáo hiện nay
Nhằm thể hiện đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước ta đối với lĩnh vực tôn giáo, tín ngưỡng trong thời kỳ đổi mới, bên cạnh các Nghị quyết số 25- NQ/TW ngày 12/03/2003 của Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa IX “về công tác tôn giáo”, Ủy Ban Thường vụ Quốc hội có phiên họp thứ 19 Khóa XI ngày 18/06/2004 đã thông qua Pháp lệnh tín ngưỡng, tôn giáo. Đặc biệt là luật tôn giáo, tín ngưỡng được Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam khóa XIV, kỳ họp thứ 2 thông qua ngày 18 tháng 11 năm 2016, được Chủ tịch nước ký lệnh công bố ngày 1 tháng 12 năm 2016 và có hiệu lực từ ngày 1 tháng 1 năm 2018. Đây là văn bản quy phạm pháp luật có giá trị cao nhất điều chỉnh trực tiếp lĩnh vực tín ngưỡng, tôn giáo. Luật tôn giáo, tín ngưỡng đã thể chế hóa đường lối, chủ trương về chính sách của Đảng và Nhà nước về tín ngưỡng, tôn giáo hiện nay, tạo cơ sở pháp lý cho công dân thực hiện quyền cơ bản về tự do tín ngưỡng, tôn giáo, nâng cao hiệu lực quản lý Nhà nước đối với lĩnh vực này.
Luật tín ngưỡng, tôn giáo gồm có 9 chương 68 điều [12,1], luật đã thể hiện rõ phạm vi điều chỉnh, đối tượng áp dụng. Luật cũng quy định về quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo; hoạt động tín ngưỡng, hoạt động tôn giáo; tổ chức tôn giáo; quyền và nghĩa vụ của cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan đến hoạt động tín ngưỡng, hoạt động tôn giáo. Đồng thời luật cũng áp dụng đối với cơ quan, tổ chức, cá nhân trong việc bảo đảm và thực hiện quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo. Có thể khái quát một số nội dung cơ bản về quy định của luật tín ngưỡng, tôn giáo như sau:
Một là, Khẳng định mọi người có quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo, theo hoặc không theo một tôn giáo nào của mọi công dân Việt Nam, cũng như người nước ngoài cư trú hợp pháp tại Việt Nam. Mỗi người có quyền bày tỏ niềm tin tín ngưỡng, tôn giáo; thực hành lễ nghi tín ngưỡng, tôn giáo; có quyền vào tu các cơ sở tôn giáo. Quyền của tổ chức tôn giáo, tổ chức giáo hội trực thuộc. Các tổ chức, cá nhân trong thực hiện quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo phải tuân thủ quy định của pháp luật.
Hai là, Quy định về hoạt động tín ngưỡng: hoạt động tín ngưỡng, lễ hội tín ngưỡng phải bảo đảm bảo tồn và phát huy các giá trị văn hóa truyền thống tốt đẹp của dân tộc. Việc tổ chức hoạt động tín ngưỡng, lễ hội tín ngưỡng phải bảo đảm an ninh, trật tự, an toàn xã hội, tiết kiệm, bảo vệ môi trường.
Ba là, quy định về việc đăng ký sinh hoạt tôn giáo tập trung, đăng ký hoạt động tôn giáo. Luật chỉ rõ điều kiện, trình tự, thủ tục, thẩm quyền chấp thuận đăng ký sinh hoạt tôn giáo, trường hợp được cấp chứng nhận cũng như hoạt sau khi được cấp chứng nhận.
Bốn là, những quy định về việc công nhận tổ chức tôn giáo; thành lập, chia tách, sáp nhập, hợp nhất tổ chức tôn giáo trực thuộc. Phong phẩm, bổ nhiệm, bầu cử, suy cử, thuyên chuyển, cách chức, bãi nhiệm chức sắc, chức việc, nhà tu hành. Các nội dung liên quan đến điều kiện thành lập cơ sở đào tạo tôn giáo, lớp bồi dưỡng tôn giáo cũng như cơ chế giải thể cơ sở đào tạo tôn giáo.
Năm là, các quy định về hoạt động tôn giáo; hoạt động xuất bản, giáo dục, y tế, bảo trợ xã hội, từ thiện, nhân đạo của tổ chức tôn giáo. Việc quản lý, sử dụng tài sản của cơ sở tín ngưỡng, tổ chức tôn giáo.
Sáu là, sự quản lý nhà nước về tín ngưỡng, tôn giáo cũng như xử lý vi phạm pháp luật trong lĩnh vực tín ngưỡng, tôn giáo. Để thực hiện tốt chính sách tôn giáo của Đảng và Nhà nước hiện nay, cần quán triệt sâu sắc quan điểm cơ bản của Đại hội IX về vấn đề tôn giáo trong tình hình mới, đó là “tín ngưỡng, tôn giáo là nhu cầu tinh thần của một bộ phận nhân dân”. Luật Tôn giáo năm 2018 quy định cụ thể về định về quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo; hoạt động tín ngưỡng, hoạt động tôn giáo; tổ chức tôn giáo; quyền và nghĩa vụ của cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan đến; hoạt động tín ngưỡng, hoạt động tôn giáo. Thực hiện tốt đoàn kết đồng bào theo các tôn giáo khác nhau, đồng bào có đạo và đồng bào không có đạo. Không ngừng phát triển mọi mặt của đời sống xã hội, nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân. Đồng thời làm tốt công tác tuyên truyền, vận động đồng bào có đạo, các chức sắc tôn giáo thực hiện tốt trách nhiệm công dân đối với Tổ quốc, sống “tốt đời, đẹp đạo”, phát huy những giá trị tốt đẹp văn hóa, đạo đức của tôn giáo. Đấu tranh chống lại các hành vi lợi dụng các vấn đề dân tộc, tôn giáo, tín ngưỡng, để hoạt động trái với luật tôn giáo của Nhà nước, kích động, chia rẽ khối đại đoàn kết dân tộc, ảnh hưởng đến hòa bình, an ninh quốc gia.
-----------------
1. Ban Tuyên giáo Trung ương (2016), Tài liệu nghiên cứu các văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII của Đảng (dùng cho cán bộ chủ chốt và báo cáo viên), Nxb Chính trị quốc gia – sự thật, Hà Nội.
2. Đảng Cộng sản Việt Nam (2011). Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội.
3.Đặng Xuân Kỳ (2005), Tư tưởng Hồ Chí Minh về phát triển văn hóa và con người, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
4. Hồ Chí Minh toàn tập (1995), Tập 1, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội
5. Hồ Chí Minh toàn tập (1995), Tập 3, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội
6. Hồ Chí Minh toàn tập (1995), Tập 4, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội
6. Hồ Chí Minh toàn tập (1995), Tập 5, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội
7. Hồ Chí Minh toàn tập (1995), Tập 6, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội
8. Hồ Chí Minh toàn tập (1996), Tập 7, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội
9. Hồ Chí Minh toàn tập (1996), Tập 8, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội
10. Hồ Chí Minh toàn tập (1996), Tập 9, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội
11. Hồ Chí Minh (2006), Biên niên tiểu sử, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội
12. Sơn Rốt (2013), tư tưởng Hồ Chí Minh về công tác tôn giáo và việc thực hiện chính sách tôn giáo đối với đồng bào Khmer ở Trà Vinh trong sự nghiệp đổi mới” Luận văn ThS. Hồ Chí Minh học - Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn. Đại học Quốc gia Hà Nội
12.http://vanban.chinhphu.vn/portal/page/portal/chinhphu/hethongvanban?class_id=1&_page=1&mode=detail&document_id=187900, truy cập ngày 26 tháng 6 năm 2020.
Thạc sỹ Nguyễn Quang Hùng
Đại học Trà Vinh