Thực hiện Chỉ thị của Ban Thường vụ Trung ương Đảng, ngày 11/6/1948, Chủ tịch Hồ Chí Minh ra Lời kêu gọi thi đua ái quốc trong toàn Đảng, toàn quân và toàn dân. Dù chỉ được thể hiện súc tích trong 427 từ, song Lời kêu gọi thi đua ái quốc là văn kiện đã khởi nguồn và mở ra một phong trào hành động thiết thực thể hiện tinh thần yêu nước nồng nàn của dân tộc, tạo nên nguồn sức mạnh vô cùng to lớn, góp phần quan trọng đưa sự nghiệp cách mạng giải phóng dân tộc và xây dựng chủ nghĩa xã hội đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác. 70 năm qua, Lời kêu gọi thi đua ái quốc vẫn mang giá trị lý luận và thực tiễn sâu sắc. Giá trị của văn kiện được thể hiện ở mấy điểm chủ yếu sau:
|
Lời kêu gọi thi đua ái quốc của Chủ tịch Hồ Chí Minh. |
1. Sự thể hiện tập trung tư tưởng thi đua yêu nước
Phát động phong trào thi đua trên nền tảng chủ nghĩa yêu nước là một tư tưởng sáng tạo của Chủ tịch Hồ Chí Minh, nhằm động viên đến mức cao nhất sức mạnh của toàn dân tộc cho sự nghiệp cách mạng thông qua những hành động, việc làm cụ thể - những biểu hiện thiết thực của tinh thần yêu nước. Lời kêu gọi thi đua ái quốc xác định mục đích của phong trào thi đua yêu nước là: “Diệt giặc đói, Diệt giặc dốt, Diệt giặc ngoại xâm”, để nhằm thực hiện “Hạnh phúc cho dân”(2).
Về nội dung thi đua, Lời kêu gọi chỉ rõ: “Làm cho mau, Làm cho tốt, Làm cho nhiều” trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội, từ quân sự, kinh tế, cho đến chính trị, văn hóa. Đây là sự thể hiện tính toàn diện của cuộc kháng chiến, sâu xa hơn là tính toàn diện của sự nghiệp cách mạng.
Về cách làm, trong Lời kêu gọi, Chủ tịch Hồ Chí Minh nêu phương châm: “Dựa vào: Lực lượng của dân, Tinh thần của dân, để gây: Hạnh phúc cho dân”. Đó là sự kết hợp giữa huy động sức dân và bồi dưỡng sức dân, huy động sức dân, phát huy tinh thần và lực lượng của dân xét đến cùng là để mang lại hạnh phúc cho dân. Đó cũng là tính nhân văn, triệt để của sự nghiệp cách mạng của Đảng và dân tộc.
Đi vào cách làm cụ thể, Lời kêu gọi nêu lên bổn phận của mỗi người dân yêu nước trong các hoạt động thực tiễn:
“Các cụ phụ lão thi đua đốc thúc con cháu hăng hái tham gia mọi công việc,
Các cháu nhi đồng thi đua học hành và giúp việc người lớn,
Đồng bào phú hào thi đua mở mang doanh nghiệp,
Đồng bào công nông thi đua sản xuất,
Đồng bào trí thức và chuyên môn thi đua sáng tác và phát minh,
Nhân viên Chính phủ thi đua tận tụy làm việc, phụng sự nhân dân,
Bộ đội và dân quân thi đua giết cho nhiều giặc, đoạt cho nhiều súng” (3).
Tóm lại, tất cả mọi người Việt Nam, hễ là người yêu nước đều có trách nhiệm phải thi đua biến tinh thần yêu nước thành những hành động thiết thực.
2. Lời kêu gọi thi đua ái quốc của Chủ tịch Hồ Chí Minh - sự khẳng định, bồi dưỡng, củng cố ý chí, niềm tin của toàn dân tộc vào tương lai tất thắng của sự nghiệp kháng chiến kiến quốc
Lời kêu gọi thi đua ái quốc của Chủ tịch Hồ Chí Minh ra đời vào tháng 6/1948 là thời điểm cuộc kháng chiến kiến quốc của dân tộc còn đang rất khó khăn, gian khổ. Bởi lẽ, lúc này, mặc dù ra đời một cách hợp hiến, hợp pháp, đại diện và tiêu biểu cho ý chí, nguyện vọng của toàn dân tộc, nhưng chính quyền cách mạng do Chủ tịch Hồ Chí Minh đứng đầu lại không được sự công nhận của bất kỳ một quốc gia nào trên thế giới. Sự toan tính, nhân nhượng, thỏa hiệp giữa các cường quốc khiến một dân tộc đã gan góc chống ách nô lệ của Pháp hơn 80 năm, một dân tộc đã gan góc đứng về phe Đồng minh chống phát xít mấy năm, đáng lẽ phải được tự do, phải được độc lập theo những tuyên bố của các nước Đồng Minh tại Hội nghị thành lập Liên hợp quốc (tháng 10/1945), nhưng trên thực tế lại không được thừa nhận. Trong khi đó, thực dân Pháp quay lại xâm lược với đội quân thiện chiến, nhà nghề, có vũ khí, trang thiết bị, trình độ, kinh nghiệm tác chiến hơn nhiều lần lực lượng vũ trang cách mạng còn đang rất non trẻ, nhỏ bé. Trên thực tế, cho đến trước tháng 01/1950, dân tộc Việt Nam phải tiến hành cuộc kháng chiến kiến quốc trong vòng vây trùng điệp của chủ nghĩa đế quốc và các lực lượng phản cách mạng.
Tình hình càng thêm khó khăn đối với cuộc kháng chiến của nhân dân Việt Nam, khi xuất phát điểm của lực lượng kháng chiến rất thấp. Tình trạng lạc hậu, què quặt và kiệt quệ của nền kinh tế, nạn đói, dịch bệnh, dân trí thấp kém, những tệ nạn xã hội cũ để lại, sự thiếu thốn về trang thiết bị, trình độ, kinh nghiệm tổ chức quân đội, kỹ thuật tác chiến… khiến cho những năm đầu của cuộc kháng chiến hết sức gay go, gian khổ.
Nhưng dưới sự lãnh đạo của Trung ương Đảng và Chính phủ cách mạng do Chủ tịch Hồ Chí Minh đứng đầu, ý chí và niềm tin vào tương lai tươi sáng của dân tộc đã được thắp sáng và vẫn luôn cháy sáng. Sau khi hoàn thành xuất sắc việc kìm chân quân Pháp ở Hà Nội trong 60 ngày đêm cuối năm 1946, đầu năm 1947, trong chiến dịch phản công Thu - Đông năm 1947, quân dân Việt Nam đã đánh bại cuộc tấn công của hơn 15.000 quân Pháp vào căn cứ địa Việt Bắc, làm thất bại chiến lược “đánh nhanh, thắng nhanh” của Pháp. Ý chí và niềm tin tất thắng đó tiếp tục được Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định và bồi dưỡng, củng cố trong Lời kêu gọi thi đua ái quốc, Người nhấn mạnh:
“Kết quả đầu tiên của Thi đua ái quốc sẽ là:
Toàn dân đủ ăn, đủ mặc.
Toàn dân biết đọc, biết viết,
Toàn bộ đội đầy đủ lương thực, khí giới, để diệt ngoại xâm,
Toàn quốc sẽ thống nhất độc lập hoàn toàn”(4).
Tiếp tục tinh thần đó, trước khi kết thúc Lời kêu gọi, Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: “Với tinh thần quật cường và lực lượng vô tận của dân tộc ta, với lòng yêu nước và chí kiên quyết của nhân dân và quân đội ta, chúng ta có thể thắng lợi”(5).
Đây là sự khẳng định không phải chỉ xuất phát từ ý muốn chủ quan, mà quan trọng hơn xuất phát từ niềm tin khoa học, dựa trên sự phân tích toàn diện, trong vận động, phát triển so sánh lực lượng giữa lực lượng kháng chiến và kẻ thù. Đó là quá trình chuyển hóa từ những khó khăn ban đầu của sự thiếu hụt vũ khí, trang thiết bị và kinh nghiệm, trình độ tác chiến, trở thành sức mạnh vượt trội của chính nghĩa, của lòng dân. Do đó, tuy lúc ban đầu chỉ là thế “châu chấu đá voi”, nhưng càng đánh, lực lượng kháng chiến càng được bồi đắp, phát triển mạnh mẽ, lực lượng kẻ thù càng bị đào khoét sâu vào những điểm yếu chí mạng, đặc biệt là sự ám ảnh bởi một cuộc chiến xâm lược, một cuộc chiến phi nghĩa, trái với lòng dân ở cả chính nước Pháp và Việt Nam. Vì vậy, đến một ngày, “voi thực dân” sẽ bị lòi ruột. Thực tế cuộc kháng chiến chống Pháp đã minh chứng sinh động điều này.
Trong kháng chiến chống đế quốc Mỹ, bất kỳ ai cũng thấy rõ ràng tương quan lực lượng lúc bắt đầu hết sức chênh lệch và có lợi cho Mỹ, dân tộc tạo thành những hành động thiết thực để dám đánh, quyết đánh và quyết thắng Mỹ chính là nguồn sức mạnh quyết định nhất đưa cuộc kháng chiến đến thắng lợi. Những phong trào thi đua yêu nước điển hình như: Sóng Duyên Hải, Gió Đại Phong, Trống Bắc Lý, Cờ Ba Nhất, Ba sẵn sàng, Ba đảm đang… đã khơi dậy niềm tin và sức mạnh của các tầng lớp nhân dân, thực hiện thắng lợi các nhiệm vụ cách mạng trong mỗi giai đoạn lịch sử.
Rõ ràng, trong bối cảnh đầy khó khăn, gian khổ những năm tháng cả dân tộc phải lần lượt đương đầu với những kẻ địch có sức mạnh kinh tế, quân sự hơn hẳn, sự vững vàng, tin tưởng vào tương lai tươi sáng của dân tộc, ý chí quyết đánh, quyết thắng của vị lãnh tụ Đảng và dân tộc đã truyền sức mạnh của ý chí, niềm tin cho toàn Đảng, toàn quân và toàn dân vượt mọi khó khăn, thách thức, với quyết tâm nhất định không chịu mất nước, nhất định không chịu làm nô lệ, quyết bảo vệ nền độc lập, tự do, hạnh phúc của Tổ quốc, dân tộc. Ý chí và niềm tin đó cuối cùng đã được thành quả tươi đẹp.
3. Lời kêu gọi thi đua ái quốc của Chủ tịch Hồ Chí Minh – cách thức hữu hiệu khơi dậy, bồi dưỡng, giáo dục và phát huy truyền thống yêu nước của dân tộc
Yêu nước là một trong những truyền thống vô cùng quý báu của dân tộc Việt Nam. Đây là giá trị luôn được xếp đứng đầu trong hệ các giá trị tinh thần của dân tộc Việt Nam và luôn luôn đồng hành cùng dân tộc trong quá trình dựng nước và giữ nước. Lịch sử dân tộc cho thấy mỗi khi Tổ quốc đứng trước những khó khăn, thách thức, nếu lực lượng lãnh đạo biết khơi dậy và phát huy truyền thống yêu nước trong toàn dân, sẽ tạo thành một nguồn lực hết sức mạnh mẽ và to lớn để khắc phục, vượt qua những tình thế đó; ngược lại, nếu không biết khơi dậy và phát huy sức mạnh của truyền thống yêu nước trong toàn dân, lực lượng lãnh đạo sẽ bị cô lập và thất bại.
Sinh ra trong một gia đình nhà Nho yêu nước, ở một vùng đất địa linh nhân kiệt, một trong những nơi kết tinh sâu đậm truyền thống yêu nước của dân tộc, Chủ tịch Hồ Chí Minh sớm hình thành tinh thần yêu nước nồng nàn và cũng sớm ý thức được giá trị của tinh thần yêu nước. Điều đó được thấm sâu ở Người thông qua những trải nghiệm sâu sắc trong hành trình tìm đường cứu nước. Rõ ràng, chủ nghĩa yêu nước truyền thống chính là hành trang quý giá nhất và là động lực lớn nhất thúc đẩy Hồ Chí Minh ra đi tìm đường cứu nước và vượt qua bao hiểm nguy, thử thách, vượt qua “chặng đường chiến thắng biết bao khó khăn và sự lựa chọn vững chắc, tránh được những sai lầm dẫn tới ngõ cụt”(6), để tìm ra con đường cứu nước đúng đắn, phù hợp với dân tộc và vì vậy được chính dân tộc lựa chọn - con đường giải phóng dân tộc gắn liền với giải phóng giai cấp, giải phóng con người; giành độc lập dân tộc và đi lên xây dựng chủ nghĩa xã hội; độc lập, thống nhất của Tổ quốc gắn liền với tự do, hạnh phúc của toàn dân.
Nhận rõ sức mạnh vô cùng to lớn truyền thống yêu nước của dân tộc, trong quá trình lãnh đạo cách mạng Việt Nam, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn chú trọng khơi dậy, phát huy truyền thống hết sức quý báu này để tạo thành một nguồn lực nội sinh mạnh mẽ, đưa cách mạng đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác. Tiếp nối các giai đoạn cách mạng trước, trong bối cảnh hiện tại của cuộc kháng chiến kiến quốc, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chủ trương khơi dậy, bồi dưỡng, giáo dục và phát huy truyền thống yêu nước ở mỗi một người dân thành những việc làm cụ thể, thiết thực, mang lại thế và lực mới cho cuộc kháng chiến kiến quốc của dân tộc. Người đã đặt tên phong trào thi đua là phong trào thi đua ái quốc, gắn thi đua với truyền thống yêu nước, tạo nên sức lay động và thuyết phục đối với mỗi người yêu nước.
Trong Lời kêu gọi thi đua ái quốc, Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ ra bổn phận của mỗi người dân Việt Nam, bất kỳ sĩ, nông, công, thương, binh; bất kỳ làm việc gì, đều cần phải thi đua nhau theo phương châm: làm cho mau, làm cho tốt, làm cho nhiều. Người xác định “Mỗi người dân Việt Nam, bất kỳ già, trẻ, trai, gái; bất kỳ giàu, nghèo, lớn, nhỏ, đều cần phải trở nên một chiến sĩ tranh đấu trên mặt trận: Quân sự, Kinh tế, Chính trị, Văn hóa”(7).
Yêu nước là tình cảm thiêng liêng của mỗi người dân Việt và yêu nước luôn gắn liền với bổn phận, trách nhiệm của mỗi người đối với đất nước, dân tộc. Với Chủ tịch Hồ Chí Minh, yêu nước không chỉ là tình cảm cao quý, thiêng liêng, mà còn phải được thể hiện bằng những hành động cụ thể, thiết thực, được thúc đẩy bởi những động cơ trong sáng, ý thức của mỗi người về bổn phận và trách nhiệm bản thân đối với đất nước, dân tộc, nhằm mang lại lợi ích cho đất nước, dân tộc . Những hành động đó mới chính là sự biểu đạt trung thực nhất, thuyết phục nhất cho tinh thần yêu nước.
Điều có ý nghĩa hết sức sâu sắc trong tư tưởng Hồ Chí Minh khi đề cập về thi đua ái quốc là Người chỉ ra rằng, những hành động, việc làm của mỗi người trong phong trào thi đua ái quốc không phải chỉ là những việc làm cao siêu, khác thường, mà đó chính là những công việc rất đỗi bình thường hàng ngày của mỗi người, nhưng được làm với tinh thần yêu nước, tinh thần trách nhiệm, tận tâm, tận lực, tạo nên năng suất, chất lượng và hiệu quả của hành động. Với ý nghĩa đó, thi đua ái quốc là phong trào hành động thiết thực của tất cả mọi người dân, không phân biệt giàu nghèo, không phân biệt công việc sang hay hèn, không phân biệt lứa tuổi, giới tính, chỉ cần ai có tinh thần yêu nước thì đều là những người tham gia và xứng đáng được tôn vinh.
4. Lời kêu gọi thi đua ái quốc của Chủ tịch Hồ Chí Minh - sự khởi nguồn của một phong trào hành động thiết thực giúp đào tạo và nhân rộng những con người mới
Đây là giá trị bao trùm hơn hết của Lời kêu gọi thi đua ái quốc. Trong tư tưởng Hồ Chí Minh, con người luôn có vị trí cao quý nhất, quan trọng nhất, là nguồn lực của mọi nguồn lực, tài nguyên của mọi tài nguyên, vừa là mục tiêu, vừa là động lực của sự nghiệp cách mạng. Trong sự nghiệp cách mạng vẻ vang và nhân văn cao cả của Chủ tịch Hồ Chí Minh, Người luôn chú trọng bồi dưỡng, giáo dục con người, làm cho mỗi người ngày càng được hoàn thiện hơn cả về phẩm chất đạo đức và năng lực cá nhân. Đó chính là những con người mới trực tiếp góp phần vào sự nghiệp cách mạng của Đảng và dân tộc trên tất cả các lĩnh vực, từ kinh tế, chính trị, quân sự, đến văn hóa, khoa học, nghệ thuật… Đồng thời, xét về thực chất, những con người mới đó cũng chính là thành quả tốt đẹp nhất, quý giá nhất của sự nghiệp cách mạng, là giá trị để tìm hiểu, lý giải khơi nguồn sự nghiệp cách mạng vẻ vang, cao đẹp của Chủ tịch Hồ Chí Minh.
Trong bồi dưỡng, giáo dục, đào tạo con người mới, ngoài môi trường tập trung và thường được coi là mang tính chuyên nghiệp là các trường lớp thuộc hệ thống giáo dục quốc dân, Chủ tịch Hồ Chí minh còn đặc biệt coi trọng việc giáo dục, đào tạo con người thông qua một loại trường học rất đặc biệt - trường học thực tiễn cuộc sống. Đây là loại trường học giúp người học ứng dụng, thực hành và hiểu sâu hơn những điều đã học ở trường lớp thuộc hệ thống giáo dục quốc dân, theo triết lý giáo dục rất khoa học, tiên tiến: học đi đôi với hành, lý thuyết gắn với thực tiễn. Đồng thời, với trường học suốt cả cuộc đời mỗi người, phù hợp với phương châm, phương pháp tự học, học suốt đời của Người. Trường học đó dạy cho người học những kiến thức thiết thực, nhưng cũng ẩn chứa những ý nghĩa hết sức sâu sắc của cuộc sống mà không phải và không thể có được theo đúng nghĩa trong các trường lớp thuộc hệ thống giáo dục quốc dân.
Phong trào thi đua ái quốc chính là một loại trường học thực tiễn cuộc sống như trên. Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ rõ: “Lao động sáng tạo xã hội. Thi đua thì cải tạo con người” (8). Thông qua việc phát động và tổ chức phong trào thi đua ái quốc trên toàn quốc, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã quy tụ những người Việt Nam yêu nước thuộc mọi giai tầng, lứa tuổi tham gia vào trường đào tạo của thực tiễn cuộc sống. Từ phong trào thi đua ái quốc của toàn dân, những con người mới, những tấm gương tiêu biểu cho một xã hội mới được hình thành. Những anh hùng và chiến sĩ thi đua tiêu biểu trong lao động sản xuất và chiến đấu được tuyên dương và tôn vinh như Ngô Gia Khảm, Trần Đại Nghĩa, Hoàng Hanh, Tôn Thất Tùng, Lương Định Của, La Văn Cầu, Cù Chính Lan, Nguyễn Thị Chiên, Nguyễn Quốc Trị, Nguyễn Viết Xuân,…là những điển hình cho những con người mới được đào tạo, hình thành trong phong trào thi đua ái quốc, đồng thời cũng là tấm gương tiêu biểu để các thế hệ tiếp nối học tập, nhân rộng những con người mới. Đó chính là nguyên nhân quan trọng góp phần lý giải vì sao lực lượng kháng chiến lúc đầu nhỏ bé hơn rất nhiều so với quân đội thực dân, đế quốc thiện chiến, nhà nghề, nhưng càng đánh càng mạnh, càng đánh càng phát triển và cuối cùng đã giành được thắng lợi vẻ vang.
70 năm đã qua từ khi ra đời Lời kêu gọi thi đua ái quốc của Chủ tịch Hồ Chí Minh, đất nước và dân tộc đã đạt được nhiều thành tựu có ý nghĩa lịch sử, trong đó có sự đóng góp quan trọng của các phong trào thi đua yêu nước. Độ lùi lịch sử giúp chúng ta nhận thức rõ hơn giá trị cả về lý luận và thực tiễn của Lời kêu gọi thi đua ái quốc đối với sự nghiệp cách mạng của Đảng và dân tộc. Đó không chỉ là những chỉ dẫn, lời hiệu triệu, động viên toàn Đảng, toàn quân, toàn dân trong sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc trước đây, mà còn là sự cổ vũ, dẫn đường cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ đất nước giàu mạnh, văn minh hiện nay.
---------------------
1. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, tập 9, Nxb.Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2001, tr.71.
2. Hồ Chí Minh: Toàn tập, tập 5, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, tr.556.
3. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, tập 5, tr.557.
4. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, tập 5, tr.557.
5. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, tập 5, tr.558.
6. Ho Chi Minh - Notre camrade, Introduction his - torique de Charles Fourniau, editon sociales, Paris, 1970, dẫn theo Phan Ngọc Liên: Hồ Chí Minh với tiến trình lịch sử dân tộc, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2008, tr.178.
7. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, tập 5, tr.556.
8. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, tập 7, tr.408.
PGS.TS Lý Việt Quang,
Phó Viện trưởng Viện Hồ Chí Minh và các lãnh tụ của Đảng
Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh
Theo Thông tin khoa học, Hội đồng khoa học các cơ quan Đảng Trung ương (Tháng 6/2018)