Chủ tịch Hồ Chí Minh, tấm gương sáng về nói đi đôi với làm

 

Hồ Chủ tịch tát nước chống hạn ở cánh đồng Quang Tô, xã Đại Thanh, tỉnh Hà Tây (1958).
Hồ Chủ tịch tát nước chống hạn ở cánh đồng Quang Tô, xã Đại Thanh, tỉnh Hà Tây (1958).

Người thường nhắc nhở: Nói cái gì phải cho dân tin - nói và làm phải nhất quán. Với quan niệm đó, trong suốt cuộc đời mình, Người đã thực hiện một cách nghiêm túc và đầy đủ nói đi đôi với làm. Sức thuyết phục mạnh mẽ trong tấm gương đạo đức của Hồ Chí Minh là ở chỗ, nói luôn đi đôi với làm, dù việc lớn hay việc nhỏ, tự mình phải làm gương trước. Tấm gương nói đi đôi với làm của Hồ Chí Minh, bắt nguồn từ quan niệm của Người, từ lòng dạ trong sáng, chính tâm, thật sự nêu gương của Người. Phẩm chất nói đi đôi với làm Người đã dạy chúng ta về lẽ sống “thật”, đối lập với giả, với dối.

Trong cuộc đời của Chủ tịch Hồ Chí Minh có biết bao câu chuyện cảm động về việc nêu gương, nói đi đôi với làm, tự mình làm trước.

Xuất phát từ truyền thống yêu nước của quê hương, gia đình, chứng kiến cuộc sống khổ cực của nhân dân dưới ách thống trị của thực dân Pháp, người thanh niên Nguyễn Tất Thành – Hồ Chí Minh đã quyết tâm ra đi tìm đường cứu nước. Trước khi đi, anh tâm sự với người bạn của mình: “Tôi muốn ra nước ngoài, xem nước Pháp và các nước khác. Sau khi xem xét họ làm ăn như thế nào, tôi sẽ trở về giúp đồng bào ta. Nhưng nếu đi một mình, thật ra cũng có điều mạo hiểm, ví như khi đau ốm… Anh muốn đi với tôi không? Khi người bạn hỏi lấy tiền đâu mà đi, anh Thành vừa nói, vừa giơ hai bàn tay: “Đây, tiền đây… Chúng ta sẽ làm việc. Chúng ta sẽ làm bất cứ việc gì để sống và để đi”(1).

Câu nói là sự thể hiện quyết tâm và cũng là lời hứa của Người trước vận mệnh dân tộc mình. Với hai bàn tay trắng và lòng nhiệt huyết của tuổi trẻ, 5-6-1911, chàng trai xứ Nghệ Nguyễn Tất Thành 21 tuổi đã vượt đại dương với nghề phụ bếp trên tàu để đi khắp năm châu bốn biển, tự kiếm sống, học tập với hoài bão tìm ra con đường cứu nước, giải phóng dân tộc. Thực tiễn đã chứng minh Người đã làm đúng như những gì Người đã nói. Sau 30 năm bôn ba đặt chân đến gần 30 nước, ngày 28-1-1941, Người trở về Tổ quốc trực tiếp cùng Đảng lãnh đạo cách mạng Việt Nam.

Khi nước nhà mới giành độc lập 1945, cách mạng Việt Nam đứng trước muôn vàn khó khăn “thù trong, giặc ngoài”, Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng đã đưa ra những chủ trương hết sức đúng đắn, kịp thời đẩy lùi những khó khăn. Để giải quyết nạn đói trên miền Bắc, Người đề nghị toàn dân tiết kiệm gạo để giúp đồng bào bị đói, và Người mẫu mực thực hiện trước: “Lúc chúng ta mang bát cơm lên mà ăn, nghĩ đến kẻ đói khổ chúng ta không khỏi động lòng, vậy tôi xin đề nghị với đồng bào cả nước và tôi xin thực hành trước: Cứ 10 ngày nhịn ăn một bữa, mỗi tháng nhịn 3 bữa. Đem gạo đó (mỗi bữa một bơ) để cứu dân nghèo”(2).

Nói đi đôi với làm, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã thực hiện rất nghiêm túc, mặc dù lúc này sức khỏe Người giảm sút do trải qua trận ốm nặng. Các đồng chí từng phục vụ bên Người kể lại rằng, một lần tướng Tiêu Văn của quân đội Tưởng Giới Thạch mời Người dự chiêu đãi. Hôm đó, đúng vào bữa cơ quan nhịn ăn để góp gạo cứu đói, mặc dù các đồng chí phục vụ đã báo cáo phần gạo của Người đã cho vào hũ gạo cứu đói rồi, nhưng Người vẫn quyết định “nhịn ăn một bữa” vào ngày hôm sau.

Năm 1946, để tăng cường sức khỏe cho nhân dân, Bác kêu gọi toàn dân tập thể dục. Bản thân Người là tấm gương “Tự tôi ngày nào cũng tập”(3).

Chủ tịch Hồ Chí Minh thường dạy đảng viên, nhân dân phải thực hành tiết kiệm: Tiết kiệm sức lao động, thì giờ, tiền bạc, tiết kiệm từ cái to đến cái nhỏ, không bừa bãi, phô trương hình thức. Bản thân Người đã luôn thực hiện đời sống thanh bạch từ ăn, ở đến các phương tiện sử dụng phục vụ công việc hàng ngày. Đồ dùng cá nhân của Người cũng rất giản dị và tiết kiệm.

15 năm cuối đời, Bác sống ở Phủ Chủ tịch, khi đó kinh tế còn khó khăn, đời sống nhân dân còn thiếu thốn. Bác yêu cầu: Chiều thứ Bảy hằng tuần cho Bác ăn cháo để bớt phần gạo cho dân và đề nghị với nhà bếp, cán bộ, nhân dân ăn cơm độn ngô, khoai, sắn bao nhiêu phần trăm thì độn cho Bác bấy nhiêu phần trăm. Bữa ăn của Bác thanh đạm như bữa ăn của bao gia đình người dân: Bát canh, quả cà, vài lát thịt kho. Khi ăn cơm, Bác không bao giờ để rơi một hạt cơm, vì Người biết một hạt cơm là một giọt mồ hôi của người dân. Cố Thủ tướng Phạm văn Đồng nói: Ăn cơm với Cụ hàng trăm lần, lần nào cũng thấy Cụ tém vén không để rơi một hạt nào. Bởi Cụ quý và tiết kiệm sức lao động của người làm ra lúa gạo.

Về thăm các địa phương, Người thường không báo trước. Có lần Bác đến thăm công trình thủy lợi Bắc - Hưng - Hải, buổi trưa Tỉnh ủy có mời Bác ăn cơm trưa. Ít ngày sau, Bộ trưởng Bộ Tài chính Hoàng Anh phụ trách công tác tài chính đến báo cáo công việc với Bác. Sau khi báo cáo xong, đồng chí có nói chuyện riêng với đồng chí Vũ Kỳ - Thư ký giúp việc cho Bác, đồng chí đã hỏi: Có phải hôm Bác về thăm tỉnh ấy, có thịt bò chiêu đãi? Nghe được câu chuyện giữa đồng chí Hoàng Anh với đồng chí Thư ký. Bác nói với đồng chí Hoàng Anh: Thế thì chú quyết toán cho họ. Vài ngày sau đó khi đi công tác, Bác dặn đồng chí giúp việc chuẩn bị cơm nắm muối vừng mang theo để tránh đón rước linh đình, phiền hà, tốn kém thời giờ và tiền bạc của nhân dân. Tránh tình trạng như hôm ta về thăm tỉnh, họ quyết toán chiêu đãi Bác cả con bò, điều người này, người khác sang chuẩn bị cả buổi. Thế là tự Bác bao che cho chuyện xôi thịt - mà xôi thịt đấy là sự đóng góp của dân mà có.

Về nơi ở, sau khi cuộc kháng chiến chống Pháp thắng lợi, từ chiến khu Việt Bắc trở về Thủ đô Hà Nội, Người không ở căn nhà to lớn của viên toàn quyền Đông Dương, mà chọn ở ngôi nhà của người công nhân thợ điện. Ngôi nhà mà Đảng, Chính phủ định mời Bác ở, Bác nói dành làm nơi đón, tiếp các đoàn khách sang thăm Việt Nam vì nước ta còn nghèo, một mình Bác ở nhà to rất lãng phí. Mùa hè, miền Bắc oi bức, nhưng Bác chỉ dùng quạt lá cọ để “dành điện phục vụ cho sản xuất, phục vụ sinh hoạt cho nhân dân”. Thương Bác, các đồng chí cán bộ ngoại giao gửi biếu Bác chiếc điều hòa nhiệt độ, nhưng Người không dùng mà đề nghị chuyển chiếc điều hòa ấy cho các đồng chí thương, bệnh binh đang điều trị tại trại điều dưỡng hoặc quân y viện, là những người, những nơi cần hơn.

Về mặc, Người ăn mặc cũng rất giản dị. Mùa đông, Bác Hồ có một cái áo bông của đồng bào biếu Bác, vì dùng nhiều năm nên mền bông bẹp xuống, không còn ấm nữa, nhưng không ai dám nghĩ đến việc xin Bác bỏ mền bông đi, chỉ nghĩ đến việc thay vỏ ngoài. Vì dùng mãi vỏ áo đã đứt chỉ ở khuỷu tay và ở cổ, Bác bảo mang áo lại. Nó rách ở vai thì Bác bảo vá vai, đến khi nó rách hai lần, đồng chí phục vụ xin Bác cho thay vỏ ngoài. Bác bảo: “Này, chú ạ, Chủ tịch Đảng, Chủ tịch Nước mặc áo vá vai thế này là cái phúc lớn của dân đấy. Đừng bỏ cái phúc ấy đi”(4).

Xúc động hơn cả là bản Di chúc lịch sử Bác để lại cho toàn Đảng, toàn dân trước lúc đi xa cũng được viết ở mặt sau của một tờ bản tin cũ để tiết kiệm giấy.

Không chỉ tiết kiệm trong lối sống của bản thân, ngay cả trong việc sử dụng đội ngũ cán bộ, Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng quan tâm làm sao tiết kiệm sức người, tiết kiệm thời gian. Những năm tháng sống trên chiến khu Việt Bắc, tổ công tác đi theo Bác chỉ có ít người nhưng kiêm mọi công việc. Cách mạng Tháng Tám thành công, trở về Thủ đô nhưng các đồng chí phục vụ Bác ở Phủ Chủ tịch cũng rất ít. Những khi đi công tác xa, Bác thường tạo điều kiện để các đồng chí phục vụ được tranh thủ về thăm gia đình.

Chủ tịch Hồ Chí Minh khuyên mọi người sống trong sạch, không ham tiền tài, danh vọng, không cậy quyền thế mà đục khoét của dân. Cuộc sống giản dị, trong sạch của Người thật sự là tấm gương sống để cán bộ, đảng viên, nhất là những người có chức, có quyền phải tự soi lại mình.

Nhân dân tỉnh Thái Bình gửi biếu Bác 2 chai nước mắm, Bác san sẻ quà đó với người khác cùng hưởng; hay khi nhận được món quà là hộp mật ong khô rất quý nhưng Người kiên quyết không giữ lại dùng riêng mà yêu cầu đồng chí cấp dưỡng đem nấu chè cho mọi người cùng thưởng thức. Đặc biệt, trong một lần, Người sang thăm Liên Xô, Ủy ban Trung ương Đảng Cộng sản Liên Xô gửi tới Bác 4.000 rúp, đồng chí thư ký của Bác 1.000 rúp. Nhưng trước khi rời Mat-xcơ-va, Người đã gửi lại Ủy ban Trung ương Đảng Liên Xô 5.000 rúp đó.

Người luôn nhắc nhở cán bộ, đảng viên phải tin yêu, quý trọng con người, phải kính già yêu trẻ và Người là tấm gương mẫu mực về điều đó. Trong những năm tháng giặc Mỹ leo thang bắn phá miền Bắc, cả nước sống trong không khí khẩn trương, sẵn sàng chiến đấu. Giữa trời hè nóng nực, khi xe đưa Bác đi công tác về qua Quảng trường Ba Đình, nhìn lên nóc nhà hội trường Ba Đình, thấy các đồng chí bộ đội phòng không đang trực chiến trên mâm pháo dưới cái nắng hầm hập, Bác rất thương anh em. Ngay sau đó, Người quyết định dành toàn bộ số tiền nhuận bút của mình bấy lâu trong sổ tiết kiệm gửi Bộ Quốc phòng chuyển tặng các chiến sỹ phòng không để mua nước giải khát...

Thời gian trôi qua, những câu chuyện về tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh về “nói đi đôi với làm” vẫn còn vẹn nguyên. Chủ tịch Hồ Chí Minh vẫn là tấm gương sáng chói cho mọi thế hệ người Việt Nam, đặc biệt là thanh niên học tập và noi theo./.

---------------

(1) Trần Dân Tiên: Những mẩu chuyện về đời hoạt động của Hồ Chủ tịch, Nxb. Văn học, Hà Nội, 1970, tr.10.

(2) Hồ Chí Minh: toàn tập, Sdd, tập 4, tr.33.

(3) Hồ Chí Minh: toàn tập, Sdd, tập 4, tr.241.

(4) Trần Viết Hoàn: Đạo đức Bác Hồ tấm gương soi cho muôn đời. Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2012, tr.272.

Nguyễn Thị Kim Thanh

Nguồn http://xaydungdang.org.vn


Phản hồi

Các tin khác

Mới nhất

Liên kết website