Bác Hồ với Tây Nguyên-tranh sơn dầu của họa sĩ Xu Man (ảnh chụp lại).
Danh hiệu cao quý đó gắn liền với cuộc đời cách mạng vô cùng sôi nổi và đẹp đẽ của Chủ tịch Hồ Chí Minh, gắn liền với những cống hiến đặc biệt của Người như là một cây bút bậc thầy, một nhà chiến lược văn hóa lỗi lạc, một nhà chỉ đạo thực tiễn văn hóa tài tình. Sinh thời, Người luôn đau đáu và dành hết tâm sức cho sự nghiệp phát triển văn hóa của dân tộc; vì vậy, trong Di chúc, Người căn dặn: “Đảng cần phải có kế hoạch thật tốt để phát triển kinh tế hoá và văn hóa, nhằm không ngừng nâng cao đời sống của nhân dân”(1)
1. Về mục tiêu và nội dung phát triển văn hóa
Là nhà văn hóa kiệt xuất, từ rất sớm - năm 1943, trong Mục đọc sách,Hồ Chí Minh đã đưa quan niệm tương đối hoàn chỉnh và ý nghĩa của văn hóa: “Ý nghĩa của văn hoá: Vì lẽ sinh tồn cũng như mục đích của cuộc sống, loài người mới sáng tạo và phát minh ra ngôn ngữ, chữ viết, đạo đức, pháp luật, khoa học, tôn giáo, văn học, nghệ thuật, những công cụ cho sinh hoạt hằng ngày về mặc, ăn, ở và các phương thức sử dụng. Toàn bộ những sáng tạo và phát minh đó tức là văn hoá. Văn hoá là sự tổng hợp của mọi phương thức sinh hoạt cùng với biểu hiện của nó mà loài người đã sản sinh ra nhằm thích ứng những nhu cầu đời sống và đòi hỏi của sự sinh tồn”(2).
Quan niệm của Hồ Chí Minh về văn hóa rất gần với quan điểm hiện đại về văn hóa khi coi văn hóa bao gồm toàn bộ những giá trị vật chất và tinh thần do con người sáng tạo ra trong quá trình lịch sử. Văn hóa thể hiện trình độ phát triển của con người và xã hội loài người trong quá trình tổ chức đời sống và hưởng thụ các giá trị vật chất và tinh thần do con người tạo ra, bao gồm “phương thức sinh hoạt” và “phương thức sử dụng”. Theo Hồ Chí Minh, văn hóa được tạo ra và phát triển trong quan hệ qua lại giữa con người và xã hội, trong xu hướng vươn tới cái tiến bộ, chân, thiện, mĩ và văn minh. Văn hóa được truyền từ thế hệ này qua thế hệ khác thông qua quá trình xã hội hóa và văn minh hóa.
Từ quan niệm về văn hóa, trong Di chúc Người chỉ ra mục tiêu phát triển văn hóa “nhằm không ngừng nâng cao đời sống của nhân dân”. Theo Người, “đời sống của nhân dân” bao gồm đời sống vật chất và đời sống tinh thần - hai thành tố cơ bản trong nội hàm của khái niệm văn hóa mà Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ ra. Xác lập và cụ thể hóa hệ mục tiêu như vậy, Người còn chỉ ra: “Năm điểm lớn xây dựng nền văn hoá dân tộc.
1- Xây dựng tâm lý: tinh thần độc lập tự cường.
2- Xây dựng luân lý: biết hy sinh mình, làm lợi cho quần chúng.
3- Xây dựng xã hội: mọi sự nghiệp có liên quan đến phúc lợi của nhân dân trong xã hội.
4- Xây dựng chính trị: dân quyền.
5- Xây dựng kinh tế”(3). Theo đó, biện pháp xây dựng “tâm lý”, xây dựng “tinh thần độc lập tự cường”, cũng có nghĩa là sự giáo dục, định hướng để hun đúc nên tình yêu đất nước, niềm tự hào dân tộc, ý chí tự chủ, tự cường - cơ sở nền tảng bảo đảm cho sự đoàn kết, đồng thuận dân tộc, điều kiện để tạo nên sức mạnh bảo vệ độc lập dân tộc, chống lại mọi sự xâm lược, phá hoại từ bên ngoài.
Xác định mục tiêu mục tiêu lâu dài của cách mạng Việt Nam là độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội, cho nên, Chủ tịch Hồ Chí Minh xác định và chỉ rõ: “Cách mạng xã hội chủ nghĩa gắn liền với sự phát triển khoa học và kỹ thuật, với sự phát triển văn hóa của nhân dân”. Bởi vậy, phải tiến hành đồng thời ba cuộc cách mạng: cách mạng quan hệ sản xuất, cách mạng kỹ thuật, cách mạng văn hóa và tư tưởng. Về vấn đề này, trong tác phẩm Thường thức chính trị, mục “Nhiệm vụ của nhà nước dân chủ mới”, Người chỉ rõ: “Mục đích của cách mạng là xây dựng một nước Việt Nam độc lập, thống nhất, tự do, giàu mạnh. Làm cho nhân dân được hưởng hạnh phúc và xây dựng một xã hội sung sướng, vẻ vang. Muốn đạt mục đích ấy, thì phải ra sức kháng chiến, đánh tan bọn đế quốc xâm lược và tiêu diệt bọn phong kiến phản quốc. Để kháng chiến thắng lợi, nước nhà phải xây dựng nhiều mặt”(4); trong đó, Người đề cập và luận giải sâu sắc nội dung xây dựng nền văn hóa theo hướng dân tộc, khoa học, đại chúng:“Phải xây dựng một nền văn hóa dân tộc, khoa học, đại chúng”(5).
Tóm lại, Người khẳng định, cùng với phát triển kinh tế, phát triển văn hóa là để nâng cao đời sống vật chất và đời sống văn hoá tinh thần của nhân dân: “Phát triển kinh tế và văn hoá để nâng cao đời sống vật chất và văn hoá của nhân dân ta”(6).
2. Về tính tất yếu phải phát triển văn hóa
Trước hết, văn hóa là mục tiêu, động lực của cách mạng. Văn hóa là kiến trúc thượng tầng của xã hội, vì vậy việc lật đổ chế độ xã hội cũ, xã hội thực dân phong kiến và xây dựng xã hội mới - xã hội xã hội chủ nghĩa tốt đẹp là mục tiêu của văn hóa. Cách mạng ở nước ta, theo Hồ Chí Minh là phải “thay đổi triệt để những nếp sống, thói quen, ý nghĩ và thành kiến có gốc rễ sâu xa hàng ngàn năm… Chúng ta phải biến một nước dốt nát, cực khổ thành một nước văn hóa cao và đời sống tươi vui hạnh phúc”(7). Khi chỉ rõ “văn hóa phải soi đường cho quốc dân đi”(8), Hồ Chí Minh đã nhấn mạnh vai trò động lực của văn hóa. Theo Người: tiến lên chủ nghĩa xã hội phải có cả vật chất lẫn tinh thần, song con người là quyết định; để đưa đất nước đi lên, không thể không đặt trọng tâm vào kinh tế, nhưng chủ thể của hoạt động kinh tế lại chính là con người và thước đo trình độ con người lại chính là văn hóa.
Thứ hai, văn hóa là một mặt hợp thành toàn bộ đời sống tinh thần của xã hội. Người nhấn mạnh: “trong công cuộc kiến thiết nước nhà có bốn vấn đề chú ý đến; cùng phải coi trọng ngang nhau: chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội”(9). Coi văn hóa là một mặt hợp thành toàn bộ đời sống xã hội, Hồ Chí Minh khẳng định văn hóa tồn tại và phát triển trong mối liên hệ biện chứng với các yếu tố kinh tế và chính trị và chịu sự quy định của kinh tế và chính trị. Người viết: “Muốn tiến lên chủ nghĩa xã hội thì phải phát triển kinh tế và văn hóa. Vì sao không nói phát triển văn hóa và kinh tế? Tục ngữ ta có câu: Có thực mới vực được đạo; vì thế kinh tế phải đi trước”(10). Không chỉ thấy vai trò quyết định của kinh tế và chính trị đối với văn hóa, Hồ Chí Minh còn thấy được vai trò to lớn của văn hóa đối với sự phát triển kinh tế, chính trị, xã hội. Vì thế, văn hóa không thể đứng ngoài “mà phải ở trong kinh tế và chính trị” và ngược lại kinh tế, chính trị cũng nằm “trong văn hóa”. Tăng trưởng kinh tế phải đi đôi với phát triển văn hóa và giải quyết những vấn đề xã hội; nếu chỉ coi tăng trưởng kinh tế là mục tiêu duy nhất thì chẳng những môi trường văn hóa - xã hội bị hủy hoại mà mục tiêu kinh tế cũng không đạt được.
Thứ ba, phát triển văn hóa để giữ gìn bản sắc dân tộc, đoạn tuyệt với văn hóa nô dịch. Hồ Chí Minh cho rằng, văn hóa không thể tách rời với quốc gia dân tộc, văn hóa trước hết là văn hóa của một dân tộc, nó mang tâm hồn, diện mạo dân tộc, đó chính là bản sắc dân tộc của văn hóa. Vì thế, Người dẫn lại kinh nghiệm phát triển văn hóa xã hội chủ nghĩa ở Liên Xô: “Ở Liên Xô, các dân tộc xưa kia bị chế độ Nga hoàng áp bức, ngày nay nhờ có sự giúp đỡ anh em của nhân dân Nga, đã đạt tới trình độ phát triển chưa từng có. Tự họ đã xây dựng được những cơ quan riêng của họ, đã khôi phục và phát triển được nền văn hóa riêng dùng tiếng mẹ đẻ”(11). Đồng thời, Người cho rằng phải kiên quyết đoạn tuyệt với văn hóa nô dịch với những biểu hiện cụ thể đó là lối sống sùng bái vật chất, cá nhân, vị kỷ, thực dụng, đua đòi, ăn chơi xa hoa, lãng phí, sống trụy lạc, thác loạn, ưa dùng bạo lực…, đối lập với quan niệm văn hóa truyền thống tốt đẹp của người Việt Nam:“Phải chống văn hóa nô lệ của đế quốc và phong kiến. Phải tăng cường công việc vệ sinh, phải phát triển báo chí... Những công việc xây dựng đó quan hệ mật thiết với nhau”(12).
Chủ tịch Hồ Chí Minh với các nghệ sĩ nhiếp ảnh. Ảnh tư liệu
3. Về phương thức phát triển văn hóa
Thứ nhất, phải nâng cao văn hóa Đảng để “Đảng ta là đạo đức, là văn minh”. Tại Lễ kỷ niệm lần thứ 30 ngày thành lập Đảng Lao động Việt Nam (nay là Đảng Cộng sản Việt Nam), Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nói “Với tất cả tinh thần khiêm tốn của người cách mạng, chúng ta vẫn có quyền nói rằng: “Đảng ta thật là vĩ đại!”. Bác Hồ còn chỉ rõ:
“Đảng ta vĩ đại như biển rộng, như núi cao,
Ba mươi năm phấn đấu và thắng lợi biết bao nhiêu tình,
Đảng ta là đạo đức, là văn minh,
Là thống nhất, độc lập, là hòa bình ấm no...
Công ơn Đảng thật là to,
Ba mươi năm lịch sử Đảng là cả một pho lịch sử bằng vàng”(13).
Có thể nói, một nét vĩ đại của Đảng được Bác Hồ khái quát “Đảng ta là đạo đức, là văn minh”, một mặt, nhằm giáo dục, bồi dưỡng, khích lệ tinh thần phấn đấu cao của mọi đảng viên; mặt khác, nhằm đập tan mọi mưu mô xuyên tạc, bôi nhọ của các thế lực thù địch đối với Đảng Cộng sản Việt Nam.
Là người sáng lập và rèn luyện Đảng ta, luôn đau đáu nỗi niềm trăn trở làm sao phải xây dựng Đảng, củng cố Đảng thật trong sạch, vững mạnh, thật sự xứng đáng là người lãnh đạo, đầy tớ trung thành của nhân dân, dễ hiểu tại sao trong bản Di chúc, Chủ tịch Hồ Chí Minh lại “trước hết nói về Đảng” mà cụ thể là về văn hóa Đảng. Văn hóa Đảng là một bộ phận của văn hóa dân tộc; là nơi hội tụ, kết tinh, biểu hiện tập trung nhất của văn hóa, trí tuệ dân tộc; là thước đo trình độ trưởng thành của Đảng và là nhân tố quan trọng quyết định năng lực lãnh đạo, khả năng cầm quyền của Đảng. Theo đó, muốn phát triển văn hóa dân tộc, trước hết phải phát triển văn hóa của Đảng, có như vậy, Đảng mới lãnh đạo sự nghiệp phát triển văn hóa thành công. Từ góc độ văn hóa, Hồ Chí Minh nhấn mạnh, đoàn kết chính là giá trị, là sức mạnh và cũng là hạt nhân quan trọng của văn hóa Đảng: “Đoàn kết là một truyền thống cực kỳ quý báu của Đảng và của dân ta. Các đồng chí từ Trung ương đến các chi bộ cần phải giữ gìn sự đoàn kết nhất trí của Đảng như giữ gìn con ngươi của mắt mình”(14).
Thứ hai, nâng cao trình độ văn hóa cho toàn dân. Chủ tịch Hồ Chí Minh được loài người tiến bộ suy tôn là một nhà văn hoá lớn còn bởi những thành tựu xuất sắc của Người trong lĩnh vực hoạt động và sáng tạo văn hoá và giáo dục. Với quan niệm “Một dân tộc dốt là một dân tộc yếu”(15), Chủ tịch Hồ Chí Minh cho rằng sự dốt nát cũng là kẻ địch phải chống. Người chủ trương phải phát triển nền giáo dục thì mới xây dựng được chủ nghĩa xã hội, mới tiến kịp được sự phát triển chung của nhân loại.Trong tác phẩm Thường thức chính trị, Người khẳng định: “Phải nâng cao trình độ văn hóa của nhân dân. Phải đề xướng đạo đức công dân tức là yêu Tổ quốc, yêu nhân dân, yêu lao động, yêu khoa học, bảo vệ của công...”(16). Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, để nâng cao trình độ văn hóa cho toàn dân phải bắt đầu từ sự giác ngộ nhân dân, làm cho nhân dân hiểu rõ các quy luật phát triển của xã hội, nhận rõ mục đích đấu tranh và con đường giải phóng, tin chắc vào sự thắng lợi mà kiên quyết tự đứng lên làm cách mạng và xây dựng xã hội mới không có áp bức, bóc lột và tạo ra những điều kiện phát triển toàn diện đối với con người. Vì vậy, trong bài Chống nạn thất học, Người cho rằng: “Muốn giữ vững nền độc lập, muốn làm cho dân mạnh nước giàu, mọi người Việt Nam phải hiểu biết quyền lợi của mình, bổn phận của mình, phải có kiến thức mới để có thể tham gia vào công cuộc xây dựng nước nhà, và trước hết phải biết đọc, biết viết chữ quốc ngữ”(17). Giải phóng con người ở tầm cao văn hóa như thế đã tạo ra nguồn năng lượng và động lực cực kỳ mạnh mẽ của toàn dân làm nên thắng lợi trong cả sự nghiệp giải phóng và xây dựng Tổ quốc. Đó là bí quyết thành công của cách mạng Việt Nam. Đó là bí quyết văn hóa Hồ Chí Minh. Bởi vậy, trong bất kỳ điều kiện nào, Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng luôn chủ trương phát triển văn hóa, nâng cao dân trí, giáo dục đạo đức và nâng cao nhân cách cho nhân dân.
Thứ ba, phải phát triển nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc. Nền văn hóa mà Người chủ trương xây dựng là sự kết hợp giữa kế thừa, phát huy những giá trị truyền thống tốt đẹp của văn hóa dân tộc với tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại, thấm nhuần sâu sắc chủ nghĩa yêu nước - nhân văn Việt Nam và chủ nghĩa quốc tế trong sáng, chống lại mọi biểu hiện của chủ nghĩa kỳ thị - độc tôn về văn hoá. Văn hóa phải thấm sâu vào tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội. Văn hóa phải loại trừ tham nhũng, lười biếng, phù hoa xa xỉ. Văn hóa phải làm cho mọi người dân Việt Nam, từ già đến trẻ, cả đàn ông và đàn bà, ai cũng hiểu nhiệm vụ của mình và biết hưởng hạnh phúc mà mình được hưởng. Đồng thời, người phê phán những người không chịu tiếp thu, tiếp biến các giá trị văn hóa mới, tiến bộ của nhân loại:“Có người còn có tư tưởng bảo thủ không chịu tiếp thu dễ dàng cái hay, cái mới”(18). Văn hóa có cốt lõi là đạo đức. Đạo đức mà Chủ tịch Hồ Chí Minh chủ trương xây dựng xuất phát từ chính ý nghĩa văn hóa, đạo đức hết sức nhân văn của cuộc cách mạng giải phóng dân tộc và cách mạng xã hội chủ nghĩa. Bởi vậy, Người đòi hỏi Đảng cách mạng phải “là đạo đức, là văn minh”, người làm cách mạng phải có đạo đức cách mạng, “muốn xây dựng chủ nghĩa xã hội phải có con người thấm nhuần đạo đức xã hội chủ nghĩa”(19).
Nhận thức rõ vai trò quan trọng của văn hóa, quán triệt quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh về xây dựng và phát triển nền văn hóa của dân tộc, trong quá trình lãnh đạo cách mạng, Đảng ta đã đề ra đường lối, chủ trương, chính sách về văn hóa, được thể hiện thông qua các chỉ thị, nghị quyết, nhất là Nghị quyết Trung ương 5 (khóa VIII) về “Xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc”, Nghị quyết Trung ương 9 (khóa XI) “Về xây dựng và phát triển văn hóa, con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững đất nước”,v.v.. đã góp phần bồi dưỡng tinh thần yêu nước, lòng tự hào dân tộc, đạo đức, lối sống và nhân cách của con người Việt Nam trong thời kỳ mới hướng “Văn hóa soi đường cho quốc dân đi”, “nhằm không ngừng nâng cao đời sống của nhân dân” như Di nguyện của Bác Hồ./.
Chú thích:
(1) (14) Hồ Chí Minh, Toàn tập, tập 15, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia - Sự Thật, Hà Nội, 2011, tr.622; tr.622
(2) (3) Hồ Chí Minh, Toàn tập,tập 3, tr.458; tr.458
(4) (5) (12) (16) Hồ Chí Minh, Toàn tập,tập 8, tr.265; tr.265; tr.265-266; tr.265
(6) Hồ Chí Minh, Toàn tập,Sđd, t.12, tr.470
(7) (11) Hồ Chí Minh, Toàn tập,Sđd, tập 11, tr.92; tr.168
(8) Hồ Chí Minh,Về công tác văn hóa văn nghệ, Nhà xuất bản Sự Thật, Hà Nội, 1997, tr.64
(9) Hồ Chí Minh, Văn hóa nghệ thuật cũng là một mặt trận, Nhà xuất bản Văn học, Hà Nội, 1981, tr.34
(10) (13) Hồ Chí Minh, Toàn tập,Sđd, t.12, tr.470; tr.403-404
(15) (17) Hồ Chí Minh, Toàn tập,tập 4, tr.7; tr.40
(18) (19) Hồ Chí Minh, Toàn tập,Sđd, tập 13, tr.63; tr.293.
TS. Hà Sơn Thái