V.I.Lênin và Cách mạng Tháng Mười Nga trong trái tim Hồ Chí Minh
Ánh sáng soi đường của cuộc Cách mạng vĩ đại
Càng có độ lùi của thời gian, càng khẳng định chắc chắn rằng ý nghĩa và giá trị thời đại của Cách mạng Tháng Mười Nga là không thể phủ nhận. Cùng với chủ nghĩa Mác - Lênin, cuộc Cách mạng vĩ đại ấy vẫn luôn là nguồn động lực, là ánh sáng soi đường cho nhân dân các nước bị áp bức đấu tranh giành độc lập, tự do, tự quyết định vận mệnh của dân tộc mình và giành quyền làm người cao cả nhất; trong đó có nhân dân Việt Nam. Giữa lúc Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh đang bôn ba trong hành trình tìm con đường cứu nước, cứu dân thoát khỏi ách thống trị tàn bạo của chủ nghĩa thực dân thì Cách mạng Tháng Mười Nga năm 1917 thắng lợi. Khi đó, vì bị bưng bít thông tin nên Nguyễn Ái Quốc đã ủng hộ thắng lợi của cuộc cách mạng vô sản đầu tiên trên thế giới một cách “theo cảm tính tự nhiên” và thực tế Người cũng “chưa hiểu hết tầm quan trọng lịch sử của nó”[1]. Song đúng như V.I Lênin khẳng định: “Chúng ta có quyền tự hào và quả thật chúng ta tự hào là đã có cái hân hạnh được bắt đầu xây dựng nhà nước Xôviết và do đó, mở đầu một thời đại mới trong lịch sử thế giới, thời đại thống trị của một giai cấp mới, giai cấp bị áp bức trong tất cả các nước tư bản và ở khắp nơi đang tiến tới một cuộc đời mới, tới chỗ chiến thắng giai cấp tư sản, tới chỗ thành lập chuyên chính vô sản, tới chỗ giải phóng nhân loại khỏi ách tư bản, khỏi những cuộc chiến tranh đế quốc chủ nghĩa”[2].
Thắng lợi của cuộc Cách mạng vĩ đại đó giống như mặt trời chói lọi chiếu sáng khắp năm châu; không chỉ thức tỉnh hàng triệu triệu người đang bị áp bức, bóc lột trên trái đất, mà còn tác động trực tiếp đến quyết định có ý nghĩa lịch sử quan trọng trong cuộc đời của Chủ tịch Hồ Chí Minh nói chung, con đường cách mạng Việt Nam nói riêng. Đó chính là, lịch sử ghi nhận rằng, tháng 7/1920, khi Nguyễn Ái Quốc đang hoạt động trong phong trào công nhân Pháp, tham gia sinh hoạt tại Đảng Xã hội Pháp, thì Người được đọc Sơ thảo lần thứ nhất những luận cương của Lênin về vấn đề dân tộc và thuộc địa (Sơ thảo), đăng trên báo Nhân đạo, số ra ngày 16-17/7/1920. Luận cương của V.I.Lênin với 12 luận điểm đặc biệt quan trọng đề cập những vấn đề mà Nguyễn Ái Quốc đang trăn trở như quyền bình đẳng thực sự giữa các dân tộc; tình đoàn kết chiến đấu giữa giai cấp vô sản ở các nước tư bản và cuộc đấu tranh của nhân dân ở các thuộc địa; vấn đề chính quyền; quốc tế nào bênh vực các nước thuộc địa,v.v… đã không chỉ giúp Người hiểu được những vấn đề căn cốt nhất, trả lời được câu hỏi Người đau đáu nhất, mà còn đưa đến một định hướng chính trị rõ ràng, một quyết định có ý nghĩa lịch sử trọng đại. Từ sự “cảm động, phấn khởi, sáng tỏ, tin tưởng biết bao!” vào “chiếc cẩm nang thần kỳ” này, Người đã khẳng định: “Hỡi đồng bào bị đọa đầy đau khổ! Đây là cái cần thiết cho chúng ta, đây là con đường giải phóng chúng ta!”[3] và đây cũng chính là niềm tin, là cơ sở để Người vững bước đi theo con đường cách mạng triệt để của chủ nghĩa Mác - Lênin.
Mấy tháng sau khi được đọc Sơ thảo, tại Đại hội lần thứ 18 của Đảng Xã hội Pháp (họp ở thành phố Tua, tháng 12/1920), Nguyễn Ái Quốc không chỉ tự tin bỏ phiếu tán thành Quốc tế thứ III của V.I.Lênin, trở thành người cộng sản Việt Nam đầu tiên, mà còn trở thành một trong những thành viên tham gia sáng lập Đảng Cộng sản Pháp. Từ dấu mốc lịch sử này, Người bắt đầu một chặng đường mới hoạt động lý luận và thực tiễn sôi nổi, để không chỉ đưa cuộc cách mạng giải phóng dân tộc Việt Nam theo con đường của Cách mạng Tháng Mười Nga - con đường cách mạng vô sản, mà còn góp phần tuyên truyền, tập hợp nhân dân các thuộc địa vạch trần tội ác của chủ nghĩa thực dân; chĩa mũi nhọn vào chủ nghĩa thực dân và đoàn kết nhân dân các dân tộc bị áp bức vùng lên đấu tranh để tự giải phóng mình, dân tộc mình khỏi ách thống trị của chủ nghĩa thực dân.
Sau đó, bằng các bài viết được đăng tải trên báo Nhân đạo (L’ Humanite), Đời sống công nhân (La Vie Ouvriere), Tạp chí cộng sản (La Revue Communiste), đặc biệt là báo Người cùng khổ (Le paria), Nguyễn Ái Quốc không chỉ công khai vạch trần, tố cáo tội ác của chủ nghĩa thực dân Pháp với nền “văn minh khai hoá giết người” ở khắp các thuộc địa; không chỉ kêu gọi sự ủng hộ, giúp đỡ của các Đảng Cộng sản ở chính quốc đối với phong trào đấu tranh của nhân dân ở các thuộc địa, mà còn phân tích những điều kiện thực tiễn và chỉ rõ chủ nghĩa cộng sản có thể thực hiện được ở châu Á. Không chỉ có vậy, tranh thủ các diễn đàn và các phương tiện thông tin truyền thông khi đó, Nguyễn Ái Quốc vừa khẳng định ý nghĩa lịch sử trọng đại của Cách mạng Tháng Mười Nga, vừa nhấn mạnh vai trò của Quốc tế Cộng sản; đồng thời tuyên truyền cho những thành tựu của chủ nghĩa xã hội đang được hiện thực hóa trên đất nước của V.I. Lênin vĩ đại, với một kỳ vọng lớn lao - đó là chủ nghĩa xã hội sẽ được thực hiện thắng lợi ở nhiều nơi khác trên thế giới…
Niềm kính yêu, tin tưởng từ Người Thầy vĩ đại
Những bài học kinh nghiệm quý báu của Cách mạng Tháng Mười, tính ưu việt của chế độ xã hội chủ nghĩa ở nước Nga Xôviết “dân chủ xã hội chủ nghĩa ngàn lần hơn chế độ dân chủ tư sản” và mô hình tổ chức bộ máy Nhà nước chuyên chính vô sản đầu tiên trên thế giới đã không chỉ hấp dẫn Nguyễn Ái Quốc khi đó, mà còn thôi thúc Người tìm đường đến với đất nước của V.I.Lênin vĩ đại. Tuy nhiên, khi Người đến được nước Nga, thì V.I.Lênin - người thầy của cách mạng vô sản thế giới đã qua đời. Dù không thể gặp vị lãnh tụ kính yêu của giai cấp vô sản, song thực tiễn đời sống chính trị, kinh tế, văn hoá xã hội trên đất nước Nga; tình cảm của nhân dân Nga đối với V.I.Lênin, đặc biệt là tình cảm của V.I.Lênin đối với các dân tộc thuộc địa đã làm Nguyễn Ái Quốc xúc động. Trong niềm cảm phục và tiếc thương vô hạn, Người đã viết bài “Lênin và các dân tộc thuộc địa”; trong đó nhấn mạnh rằng, tin Lênin qua đời “đến với mọi người như sét đánh ngang tai, truyền đi khắp các bình nguyên phì nhiêu ở châu Phi và các cánh đồng xanh tươi ở châu Á”. Bởi rằng, “người lãnh tụ vĩ đại này khi giải phóng nhân dân mình, còn muốn giải phóng các dân tộc khác nữa”, nên những người dân thuộc địa cũng “coi Lênin là người giải phóng cho họ”[4] khỏi ách áp bức bóc lột của kẻ thống trị.
Nguyễn Ái Quốc nhận thấy, V.I.Lênin không chỉ là lãnh tụ của nhân dân Liên Xô mà còn là lãnh tụ của tất cả những người bị áp bức, bị đọa đầy đau khổ. V.I.Lênin chính là người đầu tiên đánh giá đúng vị trí, vai trò của nhân dân ở các thuộc địa trong sự nghiệp giải phóng xã hội, giải phóng con người. Sự thật là, dù V.I.Lênin đã mất, song Quốc tế thứ III - Quốc tế Cộng sản do Người sáng lập (6/3/1919) để lãnh đạo phong trào cộng sản và công nhân quốc tế cùng với khẩu hiệu: “Vô sản các nước và các dân tộc bị áp bức đoàn kết lại!” vẫn luôn là “ngọn cờ của quốc tế cho những người bị áp bức”; vẫn đã, đang và sẽ sống mãi trong lòng nhân dân yêu hòa bình, độc lập, tự do và công lý trên toàn thế giới. Cùng với đó, “đạo đức vĩ đại và cao đẹp của người thầy đã ảnh hưởng lớn lao tới các dân tộc châu Á và đã khiến cho trái tim của họ hướng về Người, không gì ngăn cản nổi”[5].
V.I.Lênin không chỉ muốn giải phóng nước Nga, nhân dân Nga mà còn muốn giải phóng tất cả các dân tộc bị áp bức khác nữa, nên, “thật dĩ nhiên là tất cả những hy vọng của người nô lệ bị áp bức ở các nước thuộc địa vào một tương lai tốt đẹp đều gắn với tên tuổi của Lênin”[6]. Trong tư tưởng của V.I.Lênin, “nếu không có sự tham gia của các dân tộc thuộc địa, thì cách mạng xã hội không thể có được”[7], nên trong Quốc tế Cộng sản do V.I.Lênin lãnh đạo, vấn đề thuộc địa, công cuộc giải phóng nhân dân các thuộc địa luôn được quan tâm sâu sắc. Và vì vậy, “khi còn sống, Người là cha, thầy học, đồng chí và cố vấn của chúng ta. Ngày nay, Người là ngôi sao sáng chỉ đường cho chúng ta đi tới cuộc cách mạng xã hội. Lênin bất diệt sẽ sống mãi trong sự nghiệp của chúng ta”[8].
Đặc biệt, tham luận tại Đại hội Quốc tế Cộng sản lần thứ V (6/1924), Nguyễn Ái Quốc không chỉ phê phán Đảng Cộng sản Pháp chưa quan tâm đúng mức vấn đề thuộc địa và kiến nghị những biện pháp cụ thể cần phải thực hiện mà Người sau đó còn khẳng định trong bài viết “Lênin và các dân tộc thuộc địa” (năm 1925) rằng: V.I.Lênin chính là người “đã đặt cơ sở cho một kỷ nguyên mới, thật sự cách mạng trong các nước thuộc địa”. Và cũng vì thế, Người nhấn mạnh: “Vì chúng ta tự coi mình là học trò của Lênin, cho nên chúng ta cần phải tập trung tất cả sức lực và nghị lực để thực hiện trên thực tế những lời di huấn quý báu của Lênin đối với chúng ta về vấn đề thuộc địa cũng như các vấn đề khác”[9].
Những năm tháng ở nước Nga, Hồ Chí Minh có điều kiện tham dự Hội nghị Quốc tế nông dân (1923), Quốc tế cứu tế đỏ (1924), Quốc tế thanh niên (1924), Quốc tế công đoàn (1924)… và trở thành một người chiến sĩ kiên cường của phong trào cộng sản, công nhân quốc tế. Không chỉ ngưỡng mộ, kính yêu V.I.Lênin, Người còn nỗ lực thực hiện trọn vẹn những di huấn của V.I.Lênin, kiên quyết bảo vệ và phát triển những luận điểm của V.I.Lênin về vấn đề dân tộc và thuộc địa; đồng thời, đặt nền móng cho tình hữu nghị giữa nhân dân Nga và nhân dân các dân tộc khác đã từng có những đại diện đến thực tế ở nước Nga.
Dù thời gian không dài, song những gì thu nhận được trong những năm tháng ở nước Nga đã giúp Nguyễn Ái Quốc nhận thức sâu sắc hơn về V.I.Lênin vĩ đại, về Cách mạng Tháng Mười và những bài học kinh nghiệm quý báu của nhà nước Nga Xôviết; về chủ nghĩa Mác qua thực tiễn xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước Nga… để Người quyết tâm trở về gần Tổ quốc, hoạch định một lộ trình cho công cuộc giải phóng dân tộc Việt Nam.
Vận dụng những bài học của Cách mạng Tháng Mười vào Việt Nam
Mang những khát vọng về giải phóng dân tộc, về một đất nước Việt Nam độc lập, tự do, hạnh phúc, nhất là về tình đoàn kết quốc tế của V.I.Lênin vĩ đại sẽ được hiện thực hóa ở Việt Nam, Nguyễn Ái Quốc rời nước Nga và ngày 11/11/1924, Người đã về đến Quảng Châu (Trung Quốc). Tại Quảng Châu, Người tìm hiểu và bắt đầu xây dựng lực lượng, chuẩn bị về chính trị, tư tưởng và tổ chức cho sự ra đời của một chính Đảng kiểu mới cho giai cấp công nhân và dân tộc Việt Nam theo nguyên tắc một Đảng Mácxít Lênninnít. Từ nội dung những bài giảng của mình cho những thanh niên Việt Nam yêu nước tại các lớp huấn luyện chính trị về chủ nghĩa Mác – Lênin, về lý luận cách mạng, về đạo đức cách mạng, về Đảng Cộng sản, về chủ nghĩa xã hội, về Quốc tế Cộng sản và các tổ chức đoàn thể, v.v.. và cùng với việc truyền bá chủ nghĩa Mác - Lênin về Việt Nam, Nguyễn Ái Quốc đã mang đến cho phong trào cách mạng trong nước một luồng sinh khí mới, mang hơi thở của thời đại.
Tầm quan trọng và ảnh hưởng của V.I. Lênin, của Cách mạng Tháng Mười Nga đã được Nguyễn Ái Quốc khẳng định trong tác phẩm Đường Kách mệnh (xuất bản đầu năm 1927, sau sửa lại là Đường Cách mệnh): “Trong thế giới bây giờ chỉ có cách mệnh Nga là thành công, và thành công đến nơi” và “cách mệnh Nga dạy cho chúng ta rằng muốn cách mệnh thành công thì dân chúng (công nông) làm gốc, phải có Đảng vững bền, phải bền gan, phải hy sinh, phải thống nhất. Nói tóm lại là phải theo chủ nghĩa Mã Khắc Tư và Lênin”[10]. Đặc biệt, khi phong trào đấu tranh yêu nước ngày càng phát triển, khi phong trào công nhân chuyển dần từ tự phát sang tự giác; khi đội ngũ cán bộ cốt cán được trang bị lý luận Mác - Lênin và trang bị phương pháp vận động quần chúng về nước hoạt động, trưởng thành trong thực tiễn… thì những điều kiện chín muồi cho sự ra đời của một Đảng chân chính, cách mạng đã đến rất gần!
Thực tế, các tổ chức cộng sản đã được thành lập, song, nguy cơ chia rẽ, tranh giành ảnh hưởng đối với quần chúng, làm mất đoàn kết ở bộ phận ưu tú của các tổ chức cộng sản không chỉ gây chia rẽ nội bộ, mà còn tác động xấu đến sự phát triển của phong trào cách mạng trong nước. Trong bối cảnh đó, Nguyễn Ái Quốc không chỉ thấm nhuần lời dạy của V.I.Lênin về sự đoàn kết thống nhất trong Đảng, mà còn bằng uy tín và kinh nghiệm của mình, bằng sự nhạy cảm, quyết đoán của mình để kịp thời triệu tập và tổ chức thành công Hội nghị hợp nhất các tổ chức cộng sản ở Việt Nam (từ 6/1/1930 đến 7/2/1930) tại Cửu Long, Hồng Kông (Trung Quốc) để thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam.
Đảng ra đời, Chánh cương vắn tắt, Sách lược vắn tắt, Điều lệ vắn tắt của Đảng,v.v.. do Người soạn thảo được thông qua, mà nội dung cốt lõi là “chủ trương làm tư sản dân quyền cách mạng và thổ địa cách mạng để đi tới xã hội cộng sản”[11] đã đáp ứng được yêu cầu của đất nước và các tầng lớp nhân dân. Với đường lối chính trị đúng đắn, với sự lãnh đạo của Đảng, Nhân dân Việt Nam đã từng bước vượt mọi khó khăn, gian khổ; đã rèn luyện và đón thời cơ, chớp thời cơ vùng lên Tổng khởi nghĩa để giành chính quyền thắng lợi vào mùa Thu năm 1945. Cách mạng Tháng Tám năm 1945 đã thành công, nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đã ra đời - một nhà nước kiểu mới được xây dựng và hoạt động trên cơ sở chọn lọc những yếu tố tích cực của mô hình tổ chức nhà nước Xôviết và có những sáng tạo, phù hợp với điều kiện cụ thể của Việt Nam đã trải qua 77 năm xây dựng và phát triển. Đó thực sự là Nhà nước của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản.
Như vậy là, 105 năm sau thắng lợi của Cách mạng Tháng Mười Nga (1917-2022) và 77 năm sau thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám (1945-2022), có thể khẳng định rằng: Kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, kiên định chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh là nền tảng tư tưởng của Đảng. Dưới sự lãnh đạo của Đảng, nhân dân Việt Nam đã tiến hành thắng lợi cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp (1945-1954) và kháng chiến chống Mỹ, cứu nước (1954-1975) để giải phóng miền Nam, thống nhất Tổ quốc; đồng thời, tiếp tục vững bước trên con đường đổi mới và hội nhập quốc tế sâu rộng, xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
Dù thế giới đầy biến động, song vượt lên mọi khó khăn, thử thách, những thành tựu của Việt Nam về chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội, an ninh, quốc phòng, đối ngoại,v.v..; những đóng góp của Việt Nam trong khu vực và quốc tế trên các lĩnh vực hòa bình, an ninh, phát triển, bảo vệ quyền con người và các lĩnh vực khác… là minh chứng cho thấy “cuộc đấu tranh của nhân dân các nước vì hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ, phát triển và tiến bộ xã hội dù gặp nhiều khó khăn, thách thức, nhưng sẽ có những bước tiến mới. Theo quy luật tiến hóa của lịch sử, loài người nhất định sẽ tiến tới chủ nghĩa xã hội” như Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011) đã khẳng định.
Đồng thời, những “trái ngọt” của một Việt Nam kiên định, bản lĩnh trước những đổi thay của thời cuộc cũng chứng minh rằng, Chủ tịch Hồ Chí Minh lựa chọn chủ nghĩa Mác - Lênin, lựa chọn con đường cứu nước theo cách mạng vô sản và Đảng ta, Nhân dân ta kiên định trên con đường đi lên chủ nghĩa xã hội là đúng đắn, phù hợp xu thế phát triển tất yếu khách quan của nhân loại. Cùng với đó, bất chấp mọi âm mưu, thủ đoạn, chiêu trò xuyên tạc, bịa đặt hay phủ nhận giá trị của Cách mạng Tháng Mười và chủ nghĩa Mác - Lênin, thì đúng như Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định: “Chủ nghĩa Lênin đối với chúng ta, những người cách mạng và Nhân dân Việt Nam, không những là cái “cẩm nang” thần kỳ, không những là cái kim chỉ nam, mà còn là mặt trời soi sáng con đường chúng ta đi tới thắng lợi cuối cùng, đi tới chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản”[12]./.
[1] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2011, t.12, tr.561
[2] V.I Lênin: Toàn tập, Nxb. Tiến bộ, Mátxcơva, 1978, t.44, tr.184-185
[3] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2011, t.12, tr.562
[4] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2011, t.1, tr.257
[5]Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2011, t.1, tr.317
[6]Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2011, t.2, tr.222
[7]Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2011, t.2, tr.147
[8]Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2011, t.1, tr.257
[9]Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2011, t.1, tr.304
[10]Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2011, t.2, tr.304
[11]Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2011, t.3, tr.1
[12]Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2011, t.12, tr.563
TS. Văn Thị Thanh Mai