Chủ tịch Hồ Chí Minh duyệt đội danh dự Quân đội Liên Xô trong lễ đón đoàn đại biểu Chính phủ Việt Nam thăm chính thức Liên Xô ngày 12/7/1955. (Nguồn: Hochiminh.vn)
Chủ tịch Hồ Chí Minh là lãnh tụ thiên tài, người thầy vĩ đại của Đảng Cộng sản Việt Nam và của dân tộc Việt Nam, người anh hùng giải phóng dân tộc, chiến sỹ lỗi lạc của phong trào cộng sản và công nhân quốc tế, danh nhân văn hóa kiệt xuất thế giới. Cuộc đời và sự nghiệp cách mạng của Người đã để lại cho Đảng ta và dân tộc ta những di sản vô giá, đó là sự nghiệp giành độc lập cho dân tộc, xây dựng một nước Việt Nam dân giàu nước mạnh, dân chủ, công bằng văn minh, sánh vai với các cường quốc năm châu, là bạn với các quốc gia trên thế giới vì hòa bình độc lập, tiến bộ xã hội. Tư tưởng Hồ Chí Minh cùng với chủ nghĩa Mác-Lênin là nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động của cách mạng Việt Nam.
Tư tưởng Hồ Chí Minh là một hệ thống quan điểm toàn diện và sâu sắc về những vấn đề cơ bản của cách mạng Việt Nam. Tư tưởng Hồ Chí Minh về đối ngoại và đoàn kết quốc tế - Tư tưởng Ngoại giao Hồ Chí Minh là một bộ phận rất quan trọng và đặc sắc trong hệ thống các quan điểm của tư tưởng Hồ Chí Minh.
Là người khai sinh ra nền ngoại giao của nước Việt Nam dân chủ cộng hòa, ngày nay là nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, tư tưởng ngoại giao Hồ Chí Minh hình thành và phát triển gắn liền với toàn bộ sự nghiệp hoạt động cách mạng của Người. Trước hết, tư tưởng đối ngoại và đoàn kết quốc tế của Người đã thể hiện nổi bật trong hệ thống các tác phẩm báo chí, các bức thư, các lời kêu gọi, các tác phẩm chính luận của Người. Các quan điểm đối ngoại của Chủ tịch Hồ Chí Minh phát triển, hoàn thiện được thể hiện tập trung trong “Đường cách mệnh” (1927), Chính cương vắn tắt, Sách lược vắn tắt (1930), Chương trình 10 điểm của mặt trận Việt Minh (1944), Tuyên ngôn Độc lập (2/9/1945), thể hiện tập trung nhất trong đường lối đối ngoại của Đảng và Nhà nước ta trong văn kiện Đại hội, Nghị quyết của Trung ương, nghị quyết của Bộ Chính trị từ năm 1930 đến nay.
Nhân dân Ba Lan nồng nhiệt đón chào Chủ tịch Hồ Chí Minh và đoàn đại biểu Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, tháng 7/1957 (Ảnh tư liệu)
Tư tưởng Hồ Chí Minh về đối ngoại và đoàn kết quốc tế
Tìm hiểu, nghiên cứu tư tưởng ngoại giao Hồ Chí Minh, chúng ta không chỉ dừng ở việc nghiên cứu trước tác của Người trong toàn tập Hồ Chí Minh, Văn kiện Đảng toàn tập, mà một phương pháp rất quan trọng là chúng ta phải tìm hiểu, nghiên cứu các hoạt động lãnh đạo, chỉ đạo, tổ chức và trực tiếp thực hiện các hoạt động đối ngoại và đoàn kết quốc tế của Người. Jean Lacouture (Giăng Lacutuya) một nhà lãnh đạo Đảng Cộng sản Pháp đã có một nhận định rất sâu sắc: “Qua lăng kính tư tưởng của vị nguyên Tổng Bí thư Đảng cộng sản Đông Dương, kế đó là Đảng Lao động Việt Nam xuất hiện một hệ thống học thuyết hình thành bởi những hành động hơn bởi những từ ngữ.”[1]
Giáo sư Trần Văn Giàu đã khẳng định sự đúng đắn trong phương pháp tiếp cận tư tưởng Hồ Chí Minh từ hành động: “Cụ Hồ là người chứng minh sự vận động bằng đi đứng”, thể hiện lý thuyết bằng hành động: “Xét cho cùng thì hành động, hành động trước sau như một, lắm khi còn trung thành, chân thật hơn là lời nói và câu văn”[2].
Tìm hiểu tư tưởng ngoại giao Hồ Chí Minh, tiếp cận từ các hoạt động trực tiếp của Người từ khi ra đi tìm đường cứu nước, trong thời kỳ hoạt động ở Pháp, Nga, Anh, Trung Quốc… (1911-1941) Bác đã có hàng loạt các hoạt động đối ngoại và đoàn kết quốc tế. Đó là các hoạt động tìm hiểu các dân tộc bị áp bức, bóc lột ở các thuộc địa, tìm hiểu các lực lượng tiến bộ trên thế giới, kể cả ở “mẫu quốc” chống lại chủ nghĩa thực dân, đế quốc…; tìm hiểu các thế lực phản động hiếu chiến trong giới cầm quyền của các nước đế quốc, nhất là đế quốc Pháp để hiểu chúng và phân hóa chúng; các hoạt động tuyên truyền, vận động tập hợp lực lượng quốc tế ủng hộ cuộc đấu tranh giành độc lập của dân tộc Việt Nam.
Trong thời kỳ ở Pháp và Nga, các hoạt động đối ngoại của Bác Hồ và các đồng chí của Người đã tranh thủ sự đồng tình và ủng hộ của Đảng Cộng sản Pháp, của Hội liên hiệp các tổ chức thuộc địa, của Quốc tế cộng sản; các hoạt động thiết lập các mối quan hệ với các lãnh đạo phong trào cách mạng thế giới ủng hộ cuộc đấu tranh giải phóng của các dân tộc thuộc địa nói chung và Việt Nam nói riêng. Thời kỳ hoạt động ở Trung Quốc, bằng các hoạt động ngoại giao khôn khéo, Bác và các đồng chí của mình đã lợi dụng được chính quyền Quốc dân đảng Trung Quốc, đồng thời tranh thủ được sự ủng hộ của Đảng Cộng sản Trung Quốc, nên đã tổ chức ở Côn Minh “Việt Nam dân chúng hưởng ứng Trung Quốc khẳng định hậu vận hội”, tạo thế hợp pháp cho các hoạt động cách mạng của ta. Tranh thủ chính quyền của Tưởng Giới Thạch để chúng ta lập “Việt Nam độc lập đồng minh hội Hải ngoại biện sự xứ” là cơ quan đại diện của mặt trận Việt Minh ở nước ngoài nhằm duy trì các quan hệ với quốc dân Đảng Trung Quốc và làm nơi liên lạc quốc tế của ta. Với cơ quan đại diện này, cách mạng Việt Nam đã bắt liên lạc được với các lực lượng cách mạng ở Trung Quốc và các nước Đông Nam Á.
Trình bày một số vấn đề trên đây giúp chúng ta đi tới một nhận thức: Tư tưởng Hồ Chí Minh về đối ngoại và đoàn kết quốc tế hình thành và phát triển gắn chặt với toàn bộ hơn 60 năm hoạt động cách mạng của Người. Do đó khi nghiên cứu tư tưởng ngoại giao Hồ Chí Minh, chúng ta phải tiếp cận từ các bài viết, bài nói của Người, từ các văn kiện về đường lối, chính sách đối ngoại, đoàn kết quốc tế của Đảng và nhà nước ta, từ các tác phẩm của các học trò xuất sắc của Bác, từ các chiến sĩ cộng sản quốc tế, từ các chính khách, các nhân sĩ tri thức và bạn bè quốc tế viết và nói về Bác; và rất coi trọng tiếp cận các hoạt động trực tiếp của Bác khi Người tiến hành các hoạt động đối ngoại và đoàn kết quốc tế. Do đó tư tưởng ngoại giao Hồ Chí Minh là hệ thống các quan điểm toàn diện và sâu sắc về thế giới, về thời đại, về chiến lược sách lược, về nghệ thuật ứng xử trong quan hệ quốc tế nhằm phục vụ thắng lợi sự nghiệp cách mạng trong từng thời kỳ tiến lên giành thắng lợi cho sự nghiệp độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, xây dựng một nước Việt Nam dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh, sánh vai với các cường quốc năm châu, là bạn với mọi quốc gia vì hòa bình, độc lập dân tộc và tiến bộ xã hội.
Chủ tịch Trung Quốc Mao Trạch Đông đón Bác Hồ thăm hữu nghị Trung Quốc, ngày 25/6/1955 (Ảnh tư liệu)
Phong cách nghệ thuật ngoại giao Hồ Chí Minh
Tư tưởng Hồ Chí Minh về đối ngoại và đoàn kết quốc tế - tư tưởng ngoại giao Hồ Chí Minh được thể hiện thông qua hệ thống quan điểm, nguyên tắc, phương pháp, phong cách nghệ thuật ngoại giao sau:
- Quan điểm cơ bản – nền tảng tư tưởng ngoại giao Hồ Chí Minh là: Kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Tất cả hoạt động đối ngoại và đoàn kết quốc tế phải xuất phát từ lợi ích quốc gia, dân tộc, đặt lợi ích quốc gia dân tộc lên trên hết trước hết. Tất cả phải nhằm mục tiêu bảo vệ độc lập chủ quyền của dân tộc, tự do và hạnh phúc của nhân dân. Không có gì quý hơn độc lập tự do!
- Không ngừng nâng cao thực lực của cách mạng để nâng cao sức mạnh và hiệu quả của hoạt động đối ngoại và đoàn kết quốc tế: “Thực lực là cái chiêng, ngoại giao là cái tiếng. Chiêng có to, tiếng mới lớn”. Tư tưởng ngoại giao rất quan trọng này đã xác định vị trí và mối quan hệ giữa xây dựng thực lực của cách mạng, xây dựng và phát huy sức mạnh của dân tộc với sức mạnh và hiệu quả của hoạt động ngoại giao. Trong mối quan hệ này, hoạt động đối ngoại và đoàn kết quốc tế là rất quan trọng, còn xây dựng thực lực cách mạng có ý nghĩa quyết định.
- Quan điểm coi ngoại giao là một mặt trận, mặt trận ngoại giao cần và có thể triển khai trên khắp thế giới và ngay tại hậu phương của đối phương, đối tượng do đó phải chủ động tiến công ngoại giao: “Tiến công ngoại giao là một tiến công quan trọng có ý nghĩa chiến lược”[3]. Tiến công ở đây là phải chủ động tiến công, phải chủ động lấy cái chính nghĩa, lấy cả nghĩa cả tình (Nghĩa, lý ở đây là chân lý, lẽ phải, là pháp lý, là sự thật…; tình ở đây là khát vọng hòa bình là tinh thần hòa hiếu, hòa giải, khoan dung…) để tiến công, để thuyết phục, để cảm hóa, để tranh thủ, lôi kéo, để tập hợp. Do đó chiến lược ngoại giao phải dựa trên bối cảnh quốc tế, nắm vững đối tác, đối tượng, dự báo đúng các xu hướng phát triển, các quy luật vận động của thế giới, chiến lược của các nước, nhất là các nước lớn, các khu vực, các tổ chức quốc tế, dự báo thời cơ để quyết định các chiến dịch tiến công ngoại giao. Cần xác định kịp thời từng nội dung, từng chính sách ứng xử linh hoạt, khôn khéo để đạt hiệu quả cao.
- Nguyên tắc định hướng mọi hoạt động đối ngoại và đoàn kết quốc tế là: Kiên định vững chắc về mục tiêu chiến lược đồng thời linh hoạt mềm dẻo về sách lược. Nguyên tắc ở đây cần kiên định đó là mục tiêu giành và giữ vững độc lập cho dân tộc, bảo vệ toàn vẹn chủ quyền, lãnh thổ quốc gia (cả vùng đất, vùng trời, vùng biển), đặt lợi ích quốc gia dân tộc lên trên hết trước khi tiến hành các hoạt động đối ngoại. Phải rất năng động, mềm dẻo trong thực hiện các phương châm, chính sách ngoại giao, biết nhân nhượng, thỏa hiệp có nguyên tắc, biết lợi dụng triệt để mâu thuẫn trong nội bộ của đối tượng để lôi kéo, phân hóa, cô lập tối đa đối tượng. Biết vận động thuyết phục, cảm hóa các Đảng phái, các tầng lớp nhân dân các nước đồng tình ủng hộ sự nghiệp cách mạng, sự nghiệp kháng chiến, sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Muốn thực hiện đúng đắn và hiệu quả nguyên tắc nêu trên khi tiến hành các hoạt động đối ngoại và đoàn kết quốc tế phải vận dụng nhuần nhuyễn phương châm: biết mình, biết người, biết thời, biết thế, biết tiến, biết thoái, biết nhu, biết cương, biết dừng và biết biến!
- Trong hoạt động đối ngoại và đoàn kết quốc tế phải xử lý tốt mối quan hệ giữa độc lập tự chủ, tự lực tự cường gắn liền với hợp tác quốc tế sẽ kết hợp tối ưu sức mạnh của dân tộc với sức mạnh của thời đại. Đây là mối quan hệ cơ bản có tầm quan trọng hàng đầu trong tư tưởng ngoại giao Hồ Chí Minh. Ngoại giao độc lập, tự chủ tự cường là một chuẩn mực đảm bảo quyền độc lập thực sự của một quốc gia. Độc lập tự chủ tự cường là “cái gốc”, “cái điểm mấu chốt” của mọi chủ trương, chính sách, là phương thức khơi dậy mọi nguồn lực để xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Độc lập tự chủ trong ngoại giao không chỉ dừng lại ở việc chủ động hoạch định chính sách, biện pháp mà điều quan trọng hơn phải biết chủ động khai thác nội lực trên tinh thần tự lực, tự cường. Mặt khác, tự lực tự cường không đồng nghĩa với khép kín, đóng cửa, cô lập mà phải chủ động tăng cường mở rộng quan hệ quốc tế, hợp tác quốc tế. Bác Hồ từng chỉ rõ một trong những nguyên nhân suy yếu của các dân tộc phương Đông trong lịch sử là sự cô lập, là chính sách bế quan, tỏa cảng”. Trong tác phẩm Đường cách mệnh, Bác Hồ đã chỉ rõ: Cách mạng Việt Nam là một bộ phận của cách mạng thế giới, gắn bó mật thiết với phong trào cách mạng tiến bộ trên thế giới vì hòa bình, độc lập, tiến bộ xã hội. Tư tưởng ngoại giao Hồ Chí Minh về độc lập, tự chủ, tự cường đồng thời mở rộng quan hệ hợp tác quốc tế, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại đã được lịch sử hơn 90 năm của cách mạng Việt Nam kiểm nghiệm. Đảng ta khẳng định đây là bài học kinh nghiệm thắng lợi của cách mạng Việt Nam.
Xây dựng, phát triển và phát huy sức mạnh tổng hợp của ngoại giao Việt Nam là quan điểm tư tưởng rất quan trọng trong phương pháp cách mạng, phương pháp nghệ thuật ngoại giao Hồ Chí Minh.
Chủ tịch Hồ Chí Minh tiếp nhân sĩ trí thức Mỹ phản đối chiến tranh ở Việt Nam, năm 1967. (Ảnh tư liệu)
Ngoại giao phải bảo đảm cao nhất lợi ích quốc gia, dân tộc
Ngoại giao là một mặt trận đấu tranh cực kỳ quan trọng, là một bộ phận không thể tách rời của cuộc đấu tranh cách mạng của nhân dân ta. Tạo ra và sử dụng sức mạnh tổng hợp là phương pháp cách mạng trong tư tưởng Hồ Chí Minh. Xây dựng và phát huy sức mạnh tổng hợp của ngoại giao Việt Nam là một bộ phận quan trọng của phương pháp cách mạng Hồ Chí Minh. Trong suốt 58 năm hoạt động cách mạng (1911-1969), Bác Hồ đã trực tiếp tổ chức, lãnh đạo, chỉ đạo xây dựng, phát triển và phát huy sức mạnh của ngoại giao nhân dân, đối ngoại Đảng, ngoại giao nhà nước tạo nên sức mạnh tổng hợp của nền ngoại giao hiện đại Việt Nam. Nhận thức sâu sắc tư tưởng về phương pháp ngoại giao Hồ Chí Minh, khi tiến hành các hoạt động đối ngoại và đoàn kết quốc tế phải tiến hành đồng thời hoạt động của các “binh chủng” ngoại giao, các hình thức ngoại giao, phối hợp chặt chẽ các binh chủng, các lực lượng ngoại giao: ngoại giao Nhà nước (Quốc hội, Chính phủ), ngoại giao Đảng (với các Đảng cộng sản, công nhân, các đảng cầm quyền, các đảng đối lập); ngoại giao nhân dân (với các đoàn thể, các tổ chức phi chính phủ, các cá nhân…), ngoại giao văn hóa, ngoại giao kinh tế, ngoại giao quốc phòng, an ninh… chủ động hội nhập quốc tế.
Ngay sau Cách mạng Tháng Tám thành công, nước Việt Nam dân chủ cộng hòa ra đời, với tư cách là Chủ tịch Chính phủ kiêm Bộ trưởng Ngoại giao, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã lãnh đạo công cuộc kháng chiến kiến quốc đồng thời Người rất coi trọng lãnh đạo chỉ đạo, tổ chức các hoạt động đối ngoại, vận động các nước lớn, các nước xã hội chủ nghĩa, các nước láng giềng… công nhận nước Việt Nam dân chủ cộng hòa và thiết lập quan hệ ngoại giao với họ. Bác Hồ rất quan tâm chỉ đạo Việt Nam tham gia nhiều tổ chức quốc tế và khu vực.
35 năm qua, dưới ánh sáng soi đường của tư tưởng Hồ Chí Minh về đối ngoại và đoàn kết quốc tế, ngoại giao Việt Nam đã phát huy sức mạnh tổng hợp của đối ngoại Đảng, ngoại giao nhà nước, ngoại giao nhân dân, ngoại giao văn hóa, ngoại giao kinh tế, ngoại giao quốc phòng… làm tốt vai trò tiên phong trong giữ vững môi trường hòa bình, ổn định, bảo vệ vững chắc chủ quyền toàn vẹn lãnh thổ và lợi ích quốc gia dân tộc, bảo vệ Đảng, chế độ xã hội chủ nghĩa, chủ động tích cực đẩy mạnh hội nhập quốc tế toàn diện và sâu rộng; huy động nguồn lực to lớn từ bên ngoài phục vụ phát triển kinh tế - xã hội, thúc đẩy công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, nâng cao vị thế và uy tín của Việt Nam trên thế giới.
Hiện nay, tình hình thế giới và trong nước có cả thuận lợi, thời cơ và khó khăn thách thức đan xen, đặt ra nhiều vấn đề mới yêu cầu mới nặng nề phức tạp hơn đối với sự nghiệp xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc.
Để góp phần cùng với toàn Đảng, toàn dân, toàn quân hoàn thành thắng lợi mục tiêu Đại hội Đảng lần thứ XIII đề ra, ngoại giao Việt Nam trên cơ sở quán triệt và vận dụng sáng tạo tư tưởng Hồ Chí Minh về đối ngoại và đoàn kết quốc tế, triển khai đồng bộ, sáng tạo, hiệu quả cao đường lối đối ngoại độc lập tự chủ, hòa bình, hữu nghị, hợp tác và phát triển, đa dạng hóa, đa phương hóa quan hệ đối ngoại. Ngoại giao Việt Nam luôn bảo đảm cao nhất lợi ích quốc gia, dân tộc trên cơ sở các nguyên tắc cơ bản của Hiến chương Liên hợp quốc và luật pháp quốc tế, bình đẳng hợp tác cùng có lợi; kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, chủ động và tích cực hội nhập quốc tế toàn diện sâu rộng. Việt Nam là bạn, là đối tác tin cậy và là thành viên tích cực có trách nhiệm trong cộng đồng quốc tế./.
PGS.TS Đào Duy QuátNguyên Phó Trưởng ban Thường trựcBan Tư tưởng – Văn hóa Trung ương