Thành ủy Pleiku (Gia Lai) tổ chức Lễ báo công dâng Bác tại quảng trường Hồ Chí Minh
Trong bức thư gửi Đại hội các dân tộc thiểu số miền Nam họp tại Pleiku, ngày 19/4/1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh viết: “…Ðồng bào Kinh hay Thổ, Mường hay Mán, Gia Rai hay Ê Ðê, Xê Ðăng hay Ba Na và các dân tộc thiểu số khác, đều là con cháu Việt Nam, đều là anh em ruột thịt. Chúng ta sống chết có nhau, sướng khổ cùng nhau, no đói giúp nhau… Sông có thể cạn, núi có thể mòn, nhưng lòng đoàn kết của chúng ta không bao giờ giảm bớt…(1)
Bức thư của Chủ tịch Hồ Chí Minh thể hiện tầm vóc, tư duy nhìn xa, sâu rộng của Bác về vấn đề dân tộc, về chính sách dân tộc, về công tác dân tộc của Đảng ta. Bức thư ngắn gọn, lời thư mộc mạc, gần gũi, dễ hiểu, nhưng chứa đựng vô vàn tình yêu thương, tình đoàn kết dân tộc, là ngọn đuốc soi đường làm nên sức mạnh lòng dân trong suốt hơn bảy mươi lăm năm qua.
Thực hiện lời dạy của Chủ tịch Hồ Chí Minh, ngay sau Đại hội các dân tộc thiểu số miền Nam, các đại biểu nhanh chóng trở về các buôn làng, vận động quần chúng, tổ chức các lễ hội cộng đồng, ăn thề theo phong tục, bày tỏ niềm tin tuyệt đối, thủy chung, son sắt của đồng bào vào sự lãnh đạo của Đảng và Bác Hồ; quyết tâm thực hiện đoàn kết các dân tộc, đoàn kết giữa người Kinh và người Thượng, sát cánh cùng nhau chiến đấu chống thực dân Pháp xâm lược. Đặc biệt, trong những năm đầu của cuộc kháng chiến, mặc dù đói cơm, lạt muối, ăn lá, măng rừng, vô cùng gian khổ, nhưng hàng vạn đồng bào Tây Nguyên hăng hái gia nhập quân đội cách mạng, tham gia du kích, xây dựng làng kháng chiến hoặc xung phong ra chiến trường, cầm súng bảo vệ buôn làng.
Trong hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ, đồng bào các dân tộc Tây Nguyên phát huy truyền thống đoàn kết, kiên cường, bất khuất, kề vai, sát cánh, anh dũng cầm súng chiến đấu chống giặc, đem hết sức mình xây dựng, bảo vệ cách mạng, lập nên những chiến công vang dội; cống hiến cho đất nước những người con ưu tú, xả thân vì Tổ quốc và vun đắp cho mối tình đoàn kết, keo sơn giữa các dân tộc. Tiêu biểu như các anh hùng: Đinh Núp, dân tộc Ba Na; Kpă Klơng, Kpă Ó, dân tộc Gia Rai; Y Buông, A Tranh, dân tộc Xê Đăng; A Mét, dân tộc Giẻ Triêng; N’Trang Lơng, dân tộc M’Nông hoặc các vị cách mạng tiền bối tiêu biểu như: Y Ngông Niê Kđăm; Y Bih Alêô, dân tộc Ê Đê; Nay Đer, dân tộc Gia Rai; Bi Năng Tắc, dân tộc Raglai; Điểu Ong, dân tộc Xtiêng,… Cùng với đó, hàng vạn đồng bào, chiến sỹ trên mọi miền đất nước đã ngã xuống trên mảnh đất Tây Nguyên, đấu tranh cho sự nghiệp giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước.
Ngày 30/11/1968, trong điện gửi đồng bào chiến sĩ Tây Nguyên, Bác Hồ khen ngợi: “Quân và dân Tây Nguyên, già, trẻ, gái, trai, Kinh, Thượng đoàn kết một lòng, luôn luôn nêu cao truyền thống anh hùng, vượt qua mọi khó khăn, gian khổ, thi đua giết giặc, lập công, giữ gìn buôn rẫy, thu được những thành tích to lớn, cùng đồng bào cả nước đánh thắng giặc Mỹ xâm lược”. Người căn dặn: “Ðồng bào và chiến sĩ Tây Nguyên đã đoàn kết càng phải đoàn kết chặt chẽ hơn nữa, cố gắng không ngừng, phát huy mạnh mẽ thắng lợi đã giành được, luôn luôn nêu cao cảnh giác, sẵn sàng đập tan mọi âm mưu của địch, ra sức củng cố và phát triển vùng giải phóng và phục vụ tiền tuyến”(2).
Thực hiện lời dạy của Bác Hồ, trong mọi giai đoạn của cách mạng, đồng bào Tây Nguyên luôn phấn đấu kiên cường, bền bỉ, kề vai sát cánh, đấu tranh cho độc lập, tự do và thống nhất Tổ quốc; cần cù, sáng tạo trong lao động, sản xuất, làm nên những kỳ tích anh hùng, hiển hách, làm cho Tây Nguyên có cuộc sống bình yên và ngày càng tươi đẹp. Điều đó được khẳng định trong phát biểu của Tổng Bí thư Lê Duẩn tại cuộc mít tinh lớn ở Tây Nguyên, ngày 11/4/1978, tổ chức tại thành phố Buôn Ma Thuột, tỉnh Đắk Lắk: “Khi còn sống, Bác Hồ vô cùng nhớ Tây Nguyên. Trung ương Đảng, Chính phủ, Mặt trận Tổ quốc và nhân dân cả nước đánh giá cao sự hy sinh vô bờ bến và lòng dũng cảm tuyệt vời của đồng bào Tây Nguyên. Tổ quốc ta, nhân dân ta và các thế hệ mai sau đời đời nhớ ơn các liệt sỹ từ mọi miền đất nước đã ngã xuống trên chiến trường Tây Nguyên, mãi mãi ghi nhớ công lao của đồng bào các dân tộc Tây Nguyên đã cùng cả nước viết nên những trang sử chói ngời chủ nghĩa anh hùng cách mạng Việt Nam”(3).
Sau ngày đất nước thống nhất, tiếp tục thực hiện chính sách đại đoàn kết dân tộc theo tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh, Đảng và Nhà nước có sự đầu tư lớn cả về sức người, sức của; sự chia sẻ, hỗ trợ kịp thời của đồng bào cả nước, tập trung khai thác vùng đất giàu truyền thống cách mạng; giàu tiềm năng, thế mạnh, đầu tư xây dựng để Tây Nguyên phát triển, vững bước đi lên cùng cả nước.
Trong 5 năm đầu thế kỷ XXI (2001 - 2005), mặc dù các thế lực thù địch liên tục thực hiện âm mưu “diễn biến hòa bình”, lợi dụng vấn đề dân tộc, tôn giáo, hòng làm cho Tây Nguyên khó khăn, bất ổn, nhưng được sự lãnh đạo kịp thời của Đảng, nhất là từ khi có Nghị quyết số 10/NQ-TW, ngày 18/1/2002, của Bộ Chính trị “Về phát triển kinh tế - xã hội và bảo đảm quốc phòng, an ninh vùng Tây Nguyên”, tình hình kinh tế - xã hội khu vực Tây Nguyên tiếp tục ổn định và phát triển. Cuộc sống của đồng bào chuyển biến tích cực, không còn tình trạng thiếu đói, ốm đau, bệnh tật không có thuốc chữa như trước, từng bước hạn chế du canh, du cư, phá rừng làm nương rẫy... Hàng nghìn buôn làng “thay da đổi thịt”; đời sống tinh thần, bản sắc văn hóa ngày càng phong phú, diện mạo nông thôn ngày càng khởi sắc.
Dưới sự lãnh đạo của Đảng, thực hiện công cuộc đổi mới, trong những năm gần đây, tốc độ tăng trưởng kinh tế của vùng Tây Nguyên đều tăng cao hơn so với bình quân chung của cả nước. Giai đoạn 2016 - 2020, tăng trưởng bình quân của vùng Tây Nguyên đạt 6,55%; GRDP bình quân đầu người năm 2020 đạt 55,6 triệu đồng/người, gấp 1,4 lần so với năm 2016. Cơ cấu kinh tế chuyển dịch theo hướng tích cực, đúng hướng, tăng dần tỷ trọng công nghiệp - xây dựng - dịch vụ. Tỷ trọng các ngành nông nghiệp, công nghiệp và xây dựng, dịch vụ, thuế trợ cấp sản phẩm năm 2020 tương ứng là: 33,51%, 21%, 40,83% và 14,66% (4).
Thành ủy Gia Nghĩa (Đắk Nông) khen thưởng tập thể xuất sắc trong học và làm theo Bác
Có thể khẳng định, vấn đề cấp bách của Tây Nguyên là giao thông. Vì vậy, trong nhiều năm qua, nhà nước huy động mọi nguồn lực nhằm phát triển mạng lưới giao thông trong khu vực. Hiện nay, đường bộ toàn vùng có độ dài gần 40.000 km đã kết nối các tỉnh Tây Nguyên, mở rộng cơ hội giao thương với các trung tâm lớn cả nước và các nước trong khu vực. Trong đó, các quốc lộ qua Tây Nguyên có tổng chiều dài 2.517 km; đường liên tỉnh gần 2.035 km và hệ thống giao thông liên cửa khẩu đã nối liền Tây Nguyên với Campuchia và Lào, qua các cửa khẩu quốc tế: Đắk Ruê (Đắk Lắk), Lệ Thanh (Gia Lai), Bờ Y (Kon Tum). Đường Hồ Chí Minh cùng đường hành lang kinh tế Đông - Tây đi qua các tỉnh vùng Tây Nguyên làm thay đổi diện mạo những buôn, làng trước đây là vùng sâu, vùng xa, vùng biên giới được kết nối thuận tiện, phục vụ cho phát triển kinh tế - xã hội, nâng cao đời sống nhân dân. Hàng không phát triển nhanh với ba sân bay: Liên Khương, Buôn Ma Thuột và Pleiku. Dự án khôi phục tuyến đường sắt răng cưa Đà Lạt - Tháp Chàm và mở tuyến đường sắt mới phục vụ cho các Nhà máy Alumin Nhân Cơ (Đắk Nông) và Tân Rai (Lâm Đồng) đang được đề xuất xây dựng.
Hệ thống chính trị các cấp ở Tây Nguyên tập trung giải quyết những vấn đề vừa cơ bản, vừa cấp bách mang tính đột phá, nhất là giải quyết về đất đai, nhà ở, việc làm, nước sinh hoạt, xóa đói, giảm nghèo cho bà con đồng bào các dân tộc thiểu số. Đây là những chủ trương, giải pháp đột phá, có ý nghĩa kinh tế - xã hội sâu sắc, phù hợp với nguyện vọng của Nhân dân./.
----------------------------
(1) Những lời kêu gọi của Hồ Chủ tịch, Nxb. Sự thật, Hà Nội, 1958, t. 1, tr. 85 - 86
(2) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2000, t. 12, tr. 414 - 415
(3) Tây Nguyên trên đường phát triển bền vững, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2006, tr. 30
(4) Dự kiến kế hoạch năm 2021, 2021 - 2025 và những kết quả vùng Tây Nguyên - Tạp chí điện tử Kinh tế và Dự báo (Bộ Kế hoạch Đầu tư), ngày 27/8/2020
Bài, ảnh: Nguyễn Văn Chiến
.